PHẦN 13
NGHIÊN CỨU TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHỊP TIM KHÁC NHAU THEO ĐÔNG TÂY Y.https://youtu.be/1n1JIijb_yYI-Ý NGHĨA NHỊP TIM THEO TÂY Y.
1-Tốc độ bơm máu của nhịp tim bình thường
Một trái tim khỏe mạnh không đập theo nhịp đều đặn của đồng hồ. Nó tăng tốc bơm máu nhanh hay tốc độ bơm máu chậm lại để đáp ứng nhu cầu oxy thay đổi khi các hoạt động thay đổi trong ngày. Nhịp tim "bình thường" khi nghỉ ngơi nằm trong tiêu chuẩn tốc độ chậm là 70, tốc độ nhanh là 80 nhịp /phút là người khỏe mạnh.
2- Tốc độ bơm máu của nhịp tim nhanh hay chậm
Nếu nhịp tim cao bất thường như tốc độ bơm máu trên 90 hoặc nhịp tim tối đa thấp bất thường như dưới 60 có thể báo hiệu nguy cơ mắc bệnh tim
Tuy nhiên, các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến nhịp tim khi nghỉ ngơi, chẳng hạn như do : căng thẳng, lo lắng, hormone, thuốc, mức độ hoạt động thể chất.
a-Nguyên nhân nhịp tim nhanh theo tây y :
Nếu nhịp tim khi nghỉ ngơi liên tục trên 90 nhịp mỗi phút mặc dù về mặt hình thức vẫn bình thường, nhưng nó có thể là dấu hiệu của điều gì đó không ổn.
Nếu cao hơn như 120 là tốc dộ bơm máu nhanh làm nóng trong người
Nguyên nhân :
Tim điều chỉnh nhịp tim để phản ứng với các tình huống khác nhau nhằm cung cấp đủ lưu lượng máu cho cơ thể. Một số yếu tố có thể góp phần làm tăng nhịp tim, bao gồm:
Vận động nặng hay tập thể dục.
Về tinh thần : Căng thẳng về mặt cảm xúc, Kích hoạt hệ thần kinh giao cảm (phản ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy).
Trong tình trạng nghỉ ngơi : Mất nước, Lượng đường trong máu thấp, Rượu hoặc caffeine, Thiếu máu, Mức tuyến giáp tăng cao, Sốt nhiễm trùng.
b-Nguyên nhân nhịp tim chậm theo tây y :
Nếu nhịp tim thấp khi nghỉ ngơi liên tục thấp 60 nhịp mỗi phút, mặc dù về mặt hình thức vẫn bình thường, nhưng nó có thể là dấu hiệu của bệnh tim khi có dấu hiệu : Thiếu năng lượng, Sức bền kém, Chóng mặt, Yếu, Đau ngực, Lú lẫn/Các vấn đề về trí nhớ, Đánh trống ngực hoặc rung nhĩ,
Nguyên nhân gây ra nhịp tim thấp
Nhiều thứ có thể gây ra nhịp tim thấp. Nguyên nhân gây nhịp tim thấp bao gồm:
Trục trặc ở máy tạo nhịp tim tự nhiên của tim, nút xoang. Nút này kiểm soát tốc độ bơm máu của buồng tim trên và dưới qua cơ thể.
c-Chặn nhĩ thất AV(buồng tim trên)
Một nguyên nhân khác gây ra nhịp tim thấp là chặn nhĩ thất (chặn AV), trong đó buồng tim trên và dưới không giao tiếp tốt làm nhịp tim giảm xuống.
Bác sĩ Baez-Escudero cho biết: "Giống như có dây cáp điện ảo bên trong tim vậy". "Những thứ này sẽ xấu đi khi chúng ta già đi. Các loại thuốc trị áp huyết thông thường được sử dụng ở người cao tuổi cũng thường có thể
khiến nhịp tim chậm trở nên nghiêm trọng hơn".
Tuổi là yếu tố nguy cơ phổ biến nhất gây ra nhịp tim chậm. Tình trạng này phổ biến nhất ở nam giới và phụ nữ trên 65 tuổi.
Nếu nhịp tim giảm xuống mức 30, sẽ không nhận đủ oxy lên não, khiến bị ngất xỉu, choáng váng và khó thở. Máu cũng có thể ứ đọng trong các buồng tim, gây ra suy tim sung huyết do đông máu.
Bệnh tật hoặc các tình trạng khác cũng có thể gây ra nhịp tim chậm. Bao gồm:
Viêm cơ tim, Chức năng tuyến giáp thấp, Mất cân bằng điện giải, Quá nhiều kali trong máu, Một số loại thuốc, bao gồm thuốc chẹn beta và thuốc chống loạn nhịp tim.Bác sĩ Baez-Escudero cho biết các khuyết tật tim bẩm sinh, bệnh tiểu đường hoặc huyết áp cao lâu năm cũng có thể khiến nhịp tim chậm có khả năng xảy ra nhiều hơn
Một số nghiên cứu quan sát lớn đã chỉ ra rằng khả năng hiếu khí cao có liên quan đến nguy cơ đau tim và tử vong thấp hơn. Và một thử nghiệm có kiểm soát nhỏ đã chứng minh rằng những người đàn ông và phụ nữ bị suy giảm nhận thức nhẹ khi tăng khả năng hiếu khí cũng cải thiện hiệu suất của họ trong các bài kiểm tra trí nhớ và lý luận.
d-Nhịp tim nhanh khi tập thể dục tối đa của người già càng giảm
Một công thức của tây y về tim mạch thường được sử dụng để xác định nhịp tim tối đa khi tập thể dục của người già là 220 trừ đi số tuổi, mà không có dấu hiệu bệnh như : Đánh trống ngực, hoặc cảm giác tim đập nhanh hoặc đập mạnh Chóng mặt, Đau ngực, Khó thở, Mất ý thức, Ngừng tim, hoặc mất ý thức mà không có mạch, là bình thường .
Thí dụ 60 tuổi, có nhịp tim cao tối đa 220 trừ 60 = 160
70 tuổi nhịp tim cao tối đa 220-70 = 150
80 tuổi, nhịp tim cao tối đa 220-80 = 140
90 tuổi, nhịp tim cao tối đa 220- 90 = 130
e-Nguyên nhân gây loạn nhịp tim là gì?
Một số người có thể không có bất kỳ triệu chứng nào hoặc thậm chí không biết rằng họ đã bị rung nhĩ. Những người khác có thể gặp phải các triệu chứng rất khó chịu như:
Đánh trống ngực, Chóng mặt, Ngất xỉu
Bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ thuốc chống loạn nhịp tim hoặc cắt đốt tim. Đây là một thủ thuật mà bác sĩ tim mạch sử dụng ống thông để đốt hoặc đông lạnh một phần bên trong tim.
f-Rung nhĩ và Đột quỵ
Rung nhĩ là tình trạng nghiêm trọng vì nó làm tăng nguy cơ đột quỵ. Nếu ai đã từng bị rung nhĩ, có thể giảm nguy cơ đột quỵ bằng cách dùng thuốc chống đông máu (làm loãng máu). Thuốc này có thể được khuyến nghị ngay cả khi nhịp tim đã trở lại bình thường vì nguy cơ đột quỵ vẫn còn.
Tuy nhiên, trong khi rung nhĩ không đều, rung nhĩ là một nhịp đều đặn. Điều này là do kích thích điện di chuyển theo vòng tròn trong buồng tim trên và kích thích tim co bóp với tốc độ cụ thể. Nhiều người bị rung nhĩ có nhịp tim khoảng 150 nhịp/phút.
Rung nhĩ thường được điều trị dứt điểm bằng phương pháp cắt đốt tim.
g-Nhịp tim nhanh trên thất
Nhịp tim nhanh trên thất (SVT) là bất kỳ nhịp tim nào bắt nguồn từ phía trên tâm thất.
SVT là một thuật ngữ bao gồm nhịp tim nhanh xoang, và rung nhĩ. Tuy nhiên, hầu hết thời gian khi mọi người nhắc đến nhịp tim nhanh trên thất SVT, họ đang nói về một trong những chứng loạn nhịp sau:
Nhịp tim nhanh tái nhập nút nhĩ thất (AVNRT)
Nhịp tim nhanh tái nhập nhĩ thất AV (AVRT)
Những chứng loạn nhịp này liên quan đến những bất thường trong hệ thống dẫn truyền của tim, chẳng hạn như "đường dẫn phụ" cho phép dẫn truyền điện bỏ qua một số khu vực nhất định. Những chứng loạn nhịp này có thể được điều trị bằng thuốc hoặc cắt đốt tim trong một số trường hợp.
h-Nhịp tim nhanh thất (buồng dưới tim)
Nhịp tim nhanh thất (VT hoặc "V-tach") là một chứng loạn nhịp nghiêm trọng. Trong V-tach, kích thích điện cho nhịp tim đến từ tâm thất (buồng dưới của tim) chứ không phải từ tâm nhĩ trên.
Nhịp tim nhanh kéo dài đe dọa tính mạng và có thể dẫn đến ngừng tim. Nhịp tim này có thể nhanh đến mức tim không bơm đủ máu đến não và các cơ quan khác.
Khi ai đó bị nhanh nhĩ thất VT, họ có thể không có mạch và do đó sẽ cần hồi sức tim phổi (CPR). Họ cũng có thể cần phải chuyển nhịp tim hoặc khử rung tim để đưa nhịp tim trở lại bình thường.
i-Rung thất
Rung thất (VF hoặc "VFib") là nhịp tim nhanh nghiêm trọng nhất.
Trong rung thất VF, hệ thống điện của tim phát ra các tín hiệu không có tổ chức nhanh đến mức không thể đập hiệu quả và không bơm máu đến các bộ phận còn lại của cơ thể. Người bị ảnh hưởng sẽ mất ý thức và không có mạch. Những người có nhịp rung thất VF cần phải hồi sức tim phổi và khử rung tim.
3-Cách Đo Nhịp Tim theo tây y.
Đo nhịp tim bằng cách đo mạch tại nhiều điểm khác nhau trên cơ thể.
Mạch được cảm nhận tốt nhất qua động mạch cảnh bằng cách đặt hai ngón tay bên dưới góc hàm ở hai bên khí quản (ống dẫn khí), nhưng không bao giờ ở cả hai bên cùng một lúc. Ngoài ra, mạch có thể được cảm nhận ở động mạch quay. Nhìn vào lòng bàn tay và đặt hai ngón tay vào bên cổ tay gần ngón cái nhất để cảm nhận động mạch quay.
Để đo nhịp tim, hãy đếm mạch trong 15 giây và nhân với bốn để có nhịp mỗi phút. Ví dụ, nếu bạn đếm 20 nhịp trong 15 giây, nhịp tim của bạn là 80 nhịp/phút.
Để có phép đo chính xác hơn, hãy đếm mạch trong 30 giây và nhân với hai. Để có phép đo chính xác nhất, hãy đếm mạch trong toàn bộ phút.
4-Bài tập ảnh hưởng đến nhịp tim như thế nào
Bài tập mạnh là cách tốt nhất để giảm nhịp tim khi nghỉ ngơi và tăng nhịp tim tối đa cũng như khả năng hiếu khí. Vì không thể duy trì nhịp tim tối đa trong hơn vài phút, các nhà sinh lý học khuyên nên đặt mục tiêu theo tỷ lệ phần trăm nhịp tim tối đa của mình trong khi tập thể dục.
II-Ý NGHĨA NHỊP TIM THEO ĐÔNG Y
1-Nhịp tim chỉ sự hòa hợp khí và huyết của tạng phủ tốt hay xấu.
Tây y đo đếm mạch đập ở động mạch quay nơi cổ tay thí dụ trong 1 phút đếm được 80, thì cho rằng đó là nhịp tim. Và ngay cả đo bằng máy đo áp huyết cơ học bơm bằng tay cho ra áp huyết tâm thu, và tâm trương, rồi dùng ống nghe mạch đập ở giữa khuỷu tay trong và đếm mạch đập, cho ra một nhịp tim cố định là sai, vì khi khoa học phát minh ra máy đo áp huyết điện tử cho ra 3 số, tâm thu, tâm trương, nhịp tim, thì đo ở tay trái, tay phải, chân trái, chân phải đều ra 4 kết qủa khác nhau, nhịp tim khác nhau, thì tây y không giải thích được tại sao có 1 quả tim mà có 4 nhịp mạch khác nhau.
Tây y cho rằng máy đo áp huyết là máy đo tim mạch, nhưng theo đông y chỉ có điện tâm đồ mới đo tim mạch, còn theo đông y, đo áp huyết bên tay trái là đo chức năng của bao tử, kết quả khi đói sẽ khác, khi no khác, đều làm thay đổi áp huyết của tim, và đo áp huyết bên tay phải theo đông y cũng là đo chức năng hoạt động của gan khi đói khác, khi no khác, cũng làm ảnh hưởng đến tim mạch.
Nếu đo 2 tay, 2 chân, 4 nơi đều có nhịp mạch nằm trong tiêu chuẩn 70-80 thì sự hòa hợp của khí và huyết tốt, không bị bệnh, nếu nơi nào cao hơn hay thấp hơn, là khí và huyết không hòa hợp ở nơi tạng phủ ấy.
2-Nhịp tim chỉ nhiệt độ lạnh-nóng (hàn-nhiệt) của tạng-phủ
Khi chưa có máy đo áp huyết để thay cho bắt mạch bằng ngón tay đếm mạch đập nơi cổ tay, căn cứ theo 1 hơi thở đều của một người khỏe mạnh sẽ có 18-20 hơi thở trong 1 phút, và mỗi hơi thở đếm được 4 lần mạch đập, thì 1 phút đếm được 72–80 nhịp, thì gọi là mạch hòa hoãn, tốc độ bơm máu không nhanh, không chậm thì trong người ấm áp, không nóng không lạnh.
Nếu mỗi hơi thở đếm được 5 lần có 90-108 nhịp, hay đếm được 6 lần thì có nhịp 100-120 nhịp thì gọi là mạch nhiệt, mạch nóng..
Nếu mỗi hơi thở đếm được 3 lần thì có 54-60 nhịp là mạch hàn, mạch lạnh là tốc độ máu chạy chậm, nguyên nhân lạnh làm máu đặc nên chạy chậm gây ra hiện tượng đông máu làm máu không lưu thông thì cơ thể đau nhức, nên đông y có câu : Thông thì không đau nhức, đau nhức thì máu không thông.
3-Nhịp tim chỉ vị khí hòa hoãn là khí của bao tử
Theo đông y về ngũ hành tạng phủ là tâm, tỳ, phế, thận, gan, thì mỗi tạng đều có mạch đặc trưng riêng của mỗi tạng, như tạng tâm là mạch Hồng, tạng Tỳ, phủ Vị là mạch Hòa Hoãn, tạng Phế là mạch Sáp hay Sắc, tạng thận là mạch Trầm, tạng gan là mạch Huyền.
Ngũ hành tạng phủ mặc dù có mạch riêng, nhưng chúng phải được tiếp tế chất bổ từ thức ăn mỗi ngày thì chức năng hoạt động của bao tử phải có đủ 5 chất riêng cho 5 tạng như tim cần chất đắng, gan cần chất chua, thận cần chất mặn, phổi cần chất cay, và tỳ vị cần chất ngọt.
Khi đo áp huyết bên tay trái thuộc bao tử có nhịp tim thấp như 60 nhịp, đông y gọi là bao tử hàn, do bao tử thiếu vị ngọt là đường huyết thấp do lượng thức ăn không đủ tinh bột đường, nếu tăng lượng thức ăn tinh bột đường thì nhịp mạch của bao tử tức là nhịp tim của máy đo áp huyết bên tay trái sẽ tăng lên 70-80 thì bao tử đủ ấm nóng để làm chín thức ăn từ dạng thô đặc trở thành lỏng chuyển xuống ruột non để chuyển hóa thành máu, như vậy là bao tử có đủ vị khí, có nghĩa là đủ đường.
4-Chức năng 5 tạng hoạt động tốt đều phải có vị khì hòa hoãn của bao tử.
Thí dụ theo ngũ hành mẹ nuôi con, vị khí hòa hoãn của mẹ truyền sang con là phổi, từ phổi truyền sang con là thận, là đo áp huyết nơi cổ chân trong bên chân trái cũng phải có nhịp mạch 70-80 là thận trái có vị khí, nếu truyền sang chân phải có nhịp mạch thấp như 65 là thận phải không có vị khí là chân phải thiếu đường, từ thận phải truyền cho con là gan cũng sẽ có nhịp mạch thấp như 65 là gan cũng không có vị khí là gan thiếu đường trong thức ăn, để chuyển hóa thức ăn thành máu, thì sau khi ăn thức ăn không biến thành máu, thì tâm trương bên gan bị tụt thấp là mất máu, gan là mẹ của tim sẽ không cung cấp đủ máu lên tim dẫn đến tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ..
Theo đông y cơ thể khỏe mạnh, các chức năng của tạng phủ hoạt động tốt thì phải hòa hợp để nhận chất bổ của thức ăn từ bao tử, nên đông y nói tạng nào cũng phải có vị khí tức là có chất ngọt của tạng tỳ vị, còn theo mạch riêng của mỗi mạch cũng đều phải có thêm mạch hòa hoãn, là mạch đi trơn tru đều, nên sau khi ăn bắt mạch phế phải có mạch sáp+hoãn, mạch thận phải có mạch Trầm+hoãn, mạch gan phải có mạch Huyền+hoãn, mạch tim phải có mạch Hồng+hoãn.
Thí dụ sau khi ăn, áp huyết tay trái có nhịp tim 75, có đường huyết 140mg/dl, đo áp huyết chân trái có nhịp mạch 70, nhưng đo áp huyết chân phải có mạch 68 là đường trong máu không đủ đến chân phải, nên mạch thận không có mạch hòa hoãn, đo áp huyết tay phải là gan, chỉ có mạch huyền của gan mà không bắt được mạch hòa hoãn của tỳ vị, nên nhịp tim gan thấp 65 là cơ thể không đủ đường dẫn đến gan, đông y gọi là gan hàn, thì máu mỡ trong gan đặc, gọi là gan nhiễm mỡ, và túi mật đặc tạo ra sạn túi mật, thì 2 giờ sau khi ăn, đo lại áp huyết bên gan không có mạch hòa hoãn, nhưng đường huyết lại cao 140mg/dl, mọi người lầm tưởng là đường huyết đủ, nhưng thật ra cơ thể thiếu đường chuyển hóa thức ăn thành máu, gan phải rút đường dự trữ glycogen trong gan để điều chỉnh lượng đường trong máu, nên lượng máu trong gan giảm làm nhịp tim tăng cao, nên đông y có câu âm hư nội nhiệt ( âm là máu, hư là thiếu, trong người nóng cũng làm cơ thể mất nước. đi tiểu ra ít, nước tiểu sẽ vàng đậm)
III-Y HỌC BỔ SUNG ÁP DỤNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT VÀ MÁY ĐO ĐƯỜNG ĐỂ TÌM NGUYÊN NHÂN BỆNH THEO TINH-KHÍ-THẦN.
Ngày nay tây y nhờ vào các máy móc và kinh nghiêm đã tìm ra được nhiều những chứng bệnh nan y do nhịp tim bất bình thường, hay nhịp tim thấp, hay nhịp tim cao, gây ra nhiều bệnh về tim mạch, nhưng khi cách chữa lại gặp nhiều khó khăn, thất bại do chữa vào ngọn bệnh chỉ là hậu quả, mà không hệ thống hóa tìm nguyên nhân gốc bệnh, đâu là nguyên phát, đâu là thứ phát.
Thí dụ trong những hậu quả của bệnh tim mạch do nhịp tim cao, hay nhịp tim thấp đều nói đến nguyên nhân đường huyết, nên dẫn đến nhiều cách chữa sai lầm, vì tây y không biết phân tích bệnh theo máy đo áp huyết và máy đo đường như môn học Y Học Bổ Sung, dùng máy đo khí huyết hư thực, hàn nhiệt của ngũ hành tạng phủ theo tinh-khí-thần là theo 3 số đo áp huyết, nguyên nhân do khí, hay do tinh, hay do thần.
Máy đo áp huyết thay cho bắt mạch về tình trạng khí/ huyết/hàn-nhiệt cho biết tình trạng sức khỏe tốt hay gọi là bình thường so với áp huyết theo tiêu chuẩn tuổi, nên phân biệt được nguyên nhân gốc bệnh dễ dàng từ đó mới chữa khỏi bệnh một cách đơn giản có kết quả nhanh chóng, để bổ sung cho cách chữa cầu kỳ phức tạp của tây y :

- Tiêu chuẩn áp huyết.JPG (160.86 KiB) Đã xem 13910 lần
Chúng ta chọn tuổi trung niên 41-50 tuổi làm mẫu có áp huyết tiêu chuẩn khỏe, không bị bệnh là 120-130/70-80mmHg nhịp tim 70-75 để phân tích những trường hợp bệnh khác nhau bằng các con số cụ thể, chúng ta sẽ biết chữa đúng vào nguyên nhân gốc bệnh.
Chúng ta phân tích tìm nguyên nhân từng bệnh của tây y bằng các con số cụ thể :
1-Theo tây y những bệnh tim mạch do nhịp tim cao gồm có :
Mất nước, Lượng đường trong máu thấp, Rượu hoặc caffeine, Thiếu máu, Mức tuyến giáp tăng cao, Sốt nhiễm trùng.
2-Phân tích theo YHBS :
Trường hợp 1 : Nhịp tim cao, mất nước, thiếu máu, phình tuyến giáp, nhiễm trùng, hạ đường huyết.
Theo tây y phải chữa 5 loại bệnh, 5 loại thuốc khác nhau rất phức tạp khác với môn Y Học Bổ Sung.
Nhịp tim cao 120 là trong cơ thể quá nhiệt, do thiếu nước giải nhiệt gọi là mất nước, thiếu máu là lượng máu tâm trương bên gan thấp dưới tiêu chuẩn, đông y gọi máu là âm bị hư thiếu sinh ra nội nhiệt là nhịp tim cao, đo đường huyết thấp dưới 6mmol/l là cơ thể thiếu đường chuyển hóa thức ăn thành máu, thiếu đường tiêu hóa thức ăn, nên áp huyết trước và sau khi ăn chuyển hoa nghịch, thức ăn không trôi xuống ruột mà trào ngược lên họng làm phình tuyến giáp, thức ăn hư thối trong môi trường acid tạo ra vi khuẩn, vi trùng gây sốt nhiễm trùng và do rượu làm hạ đường huyết sẽ có áp huyết trước khi ăn đo bên tay trái có tâm thu cao, tâm trương cao, nhịp tim cao hơn tiêu chuẩn tuổi như 145/90mmHg 100, đường huyết 5.5mmol/l, sau khi ăn 30 phút có số đo áp huyết tay trái 140/80mmHg 120, đưởng huyết 6mmol/l, áp huyết tay phải, tâm trương chỉ lượng máu chứa máu có áp huyết tâm thu trước khi ăn 130/70mmHg 100, sau khi ăn 30 phút áp huyết tâm thu 140/60mmHg nhịp tim 115. Cũng chuyển hóa nghịch, tâm trương tụt thấp còn 60 là lượng máu trong gan thấp không đủ cung cấp máu cho tim bơm lên não.
Nhìn vào áp huyết hai tay trước và sau khi ăn đều có nhịp tim cao, cơ thể nhiệt làm da khô, mất nước, đều chuyển hóa nghịch làm sưng tuyến giáp, thức ăn không đủ đường chuyển hóa thức ăn thành máu, nên tâm trương tay phải thấp là thiếu lượng máu.
Kết luận : Nhìn vào số đo áp huyết và đường biết được 6 bệnh cùng môt lúc : Nhịp tim cao, mất nước, thiếu máu, phình tuyến giáp, nhiễm trùng, hạ đường huyết
Trường hợp 2 : Nhồi máu cơ tim có áp huyết tâm trương cao
a-Nguyên nhân nhồi máu cơ tim :
Theo định nghĩa, đau tim là tình trạng hoại tử, tức là tổn thương dẫn đến chết mô hoặc cơ quan bị ảnh hưởng.
Cơ tim là tên gọi của mô cơ của tim, tức là phần vách thành của qủa tim có khả năng co bóp để đảm bảo lưu thông máu.
Nhồi máu cơ tim là tổn thương hoại tử ảnh hưởng đến một phần cơ tim, khiến cơ tim không còn khả năng co bóp hiệu quả. Điều này gây ra chứng loạn nhịp tim, suy tim, có thể dẫn đến tử vong đột ngột nếu tim ngừng đập và bệnh nhân không được khử rung tim trong vòng vài phút.
Một trong bốn trường hợp nhồi máu cơ tim không được chẩn đoán vì không có triệu chứng và chỉ được tây y chẩn đoán muộn hơn nhiều, tình cờ là khi bác sĩ phát hiện ra các tổn thương trong quá trình khám vì bệnh nhân phàn nàn hoặc bị di chứng.
Đau tim xảy ra khi động mạch vành bị tắc nghẽn, ngăn cản lưu lượng máu bình thường. Các tế bào trong khu vực đó bị thiếu oxy và máu sẽ bị hoại tử (tức là chết).
Tắc nghẽn động mạch vành là do mảng xơ vữa động mạch, một cục cholesterol nhỏ tích tụ và kết tụ trên thành động mạch rồi vỡ ra, gọi là xơ vữa động mạch. Tình trạng này gây ra cục máu đông di chuyển theo mạch máu đến tim – dẫn đến nhồi máu cơ tim. Mảng xơ vữa này cũng có thể di chuyển đến não (gây ra đột quỵ do thiếu máu cục bộ), đến phổi (gây ra thuyên tắc phổi) hoặc đến chi (gây viêm động mạch).
b-Một số yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ đau tim:
Tăng cholesterol máu, thúc đẩy sự hình thành mảng xơ vữa động mạch.
Bệnh tiểu đường do đường huyết thấp làm nhịp tim thấp, máu và mỡ sẽ đặc gây tổn thương thành động mạch.
Thừa cân và béo phì, mỡ thừa làm gan nhiễm mỡ và mỡ bao tim tăng nguy cơ đau tim.
Huyết áp cao, do thiếu đường chuyển hóa thức ăn nên thức ăn trong bao tử không chuyển hóa hết xuống ruột còn đọng lại trong bao tử sẽ lên men tăng khí làm áp huyết cao, máu mỡ đặc làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông làm xơ vữa động mạch..
Lối sống ít vận động và thiếu hoạt động thể chất.
Các triệu chứng đau tim khác nhau ở mỗi giới tính.
Ở nam giới, nhồi máu cơ tim biểu hiện bằng:
Cơn đau đột ngột, dữ dội và dai dẳng bắt đầu ở ngực và lan ra cánh tay trái, lưng và đôi khi đến hàm.
Buồn nôn. Chóng mặt, thậm chí ngất xỉu kèm theo mất ý thức.
Ở phụ nữ, các dấu hiệu lâm sàng của cơn đau tim là:
Đau ngực hoặc cảm giác tức ngực, lan từ ngực đến cánh tay trái, lưng và hàm, như ở nam giới.
Mệt mỏi đáng kể mà không có lý do.
Một điểm yếu chung.
Các vấn đề về hô hấp.
Ợ nóng.
Sự lo lắng.
Một làn da rất nhợt nhạt.
Đổ mồ hôi không rõ nguyên nhân. Đông y gọi là dương hư tự hãn do lỗ chân lông mở ra, nguyên nhân thiếu đường dương để làm tăng nhịp tim thấp về tiêu chuẩn tuổi thì lỗ chân lông đóng lại để cầm mồ hôi.
Những ai bị suy tim thường bị chảy mồ hôi bàn tay, khi uống đường cát vàng và ngâm bàn tay vào chậu nước ấm pha 1 thìa canh đường cát vàng trong 30 phút, thì bàn tay khô sẽ không chảy mồ hôi tay nữa.
c-3 mức độ báo trước nhồi máu cơ tim.
1-Nếu có dấu hiệu khi đang đo áp huyết bằng máy điện tử bị máy nhồi 1 lần cho ra kết qủa tâm trương cao trên 95mmHg có dấu hiệu nhói tim nhẹ như mũi kim đâm, do mỡ máu cao, do xơ vữa động mạch, không chữa ngay sẽ phải bị đặt stent.
2-Nếu máy đo áp huyết đang bơm bị nhồi 2 lần cho ra kết quả tâm thu cao trên 100mmHg, có dấu hiệu bị nhói đau tim ngực như mũi dao đâm.
3-Nếu những ai khi do máy nhồi 3 lần, tưởng máy hư khi ra kết quả 3 số tâm thu cao như 160mm/Hg, tâm trương cao như 125mmHg, nhịp tim cao như 110, có dấu hiệu đau tức ngực như có ai đấm mạnh vào ngực, là tình trạng nhồi máu cơ tim nặng sẽ vỡ tim đột qụy tử vong cứu không kịp
d- Một số cách để hạ nhịp tim và điều hòa huyết áp
Một chế độ ăn lành mạnh có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tim mạch. Hãy tập trung vào việc ăn nhiều rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các loại hạt và đậu, và các nguồn chất đạm không béo như thịt gà, cá, và đậu hủ. Hạn chế tiêu thụ các loại thực phẩm giàu chất béo bão hòa và chất béo trans (=dầu thực vật). Khi áp huyết cao nhịp tim cao đã hạ xuống tiêu chuẩn tuổi thì ngưng, nếu tiếp tục ăn làm áp huyết hạ thấp lại trở thành áp huyết ung thư.
Chống chỉ định :
Cafein và cồn có thể ảnh hưởng đến nhịp tim và gây ra những biến động không mong muốn. Hạn chế tiêu thụ cafein và cồn làm hạ đường huyết, là một phần quan trọng trong việc duy trì nhịp tim ổn định. Thay thế nước và các loại đồ uống không chứa cafein để giữ cho tim mạch khỏe mạnh.
e-Cách làm hạ áp huyết ngừa tai biến hay đột quỵ.
-Nếu có ai đo áp huyết và đo đường cả 3 số đều cao, tâm thu, tâm trương, nhịp tim, đau nhức đầu, nên mua sẵn Muối đắng Epsom loại uống, uống ngay 2 thìa cà phê với nước ấm, nằm nghỉ 2 tiếng sau sẽ đi cầu tống hết thức ăn trong bao tử và ruột làm hạ áp huyết, sau đó cơ thể mất nước mất đường phải bù lại cho cơ thể 1 ly nước ấm pha 5 thìa cà phê đường cát vàng, cách này giúp thoát khỏi tai biến khi tâm thu cao, hay đột qụy khi tâm trương cao.
g-Glucose-Mỡ máu, tương phản mất quân bình.
Khi xét nghiệm máu ghi glucose bình thường, hay đường huyết trong tiêu chuẩn thấp 3.9-6.2mmol/l thì không bị bệnh tiểu đường thì ngược lại sẽ có kết quả tương phản là mỡ máu cao cholesterol, triglyceride cao, do hậu quả thiếu đường, chứ không phải đủ đường.
Cần nấu 4 củ sả dài chừng gang tay đập dập với 3 bát nước lửa vừa cho tan sả, rồi tắt bếp, lấy 1 quả chanh xanh rửa sạch, còn vỏ thái khoanh mỏng bỏ tiếp vào nồi khuấy dều khi nước sả còn nóng, đậy vung lại chứ không cần mở lửa cho chin chanh thì nước sẽ đắng, chờ hơi nguội rót ra được 2 ly, uống ngay 1 ly nóng ấm sau bữa ăn 2 tiếng và 1 ly còn lại uống ấm vào lúc tối, áp dụng 3-5 ngày, đi xét nghiệm lại mỡ máu sẽ không còn bệnh mỡ máu cao. Ngừa bệnh ngay khi có trường hợp a, thì không bị nặng như trường hợp b, và c.
Trường hợp 3 : Nếu chữa sai làm hạ tâm thu mà nhịp tim còn cao trở thành ung thư
Thí dụ áp huyết trước khi ăn
tay trái 140/80mmHg 120, đưởng huyết 6mmol/l,
Sau khi ăn, hay sau khi chữa theo tây y có áp huyết thay đổi như :
Tay trái 120/80mmHg nhịp tim 120, đường huyết 6mmol/l, theo YHBS đây là áp huyết giả.
Tại sao lại gọi là áp huyết giả :
a-Nhịp tim cao là âm hư nội nhiệt trong người nóng môi lưỡi khô nứt, ngoài da chân tay lạnh phải mặc áo lạnh, đo nhiệt độ tay chân bằng súng bắn nhiệt kế thấp hay chỉ low không bắt được độ
.b-Nghịch lý là chỉ đường huyết cao thì nhịp tim mới cao làm ấm chân tay, đo nhiệt độ tay chân 36-37 độ C, trường hợp này nhịp tim cao nhưng đường huyết thấp 6mmol/l, chân tay lạnh.
Vậy áp huyết thật là bao nhiêu ?
Nếu người khỏe, không bị bệnh thì nhịp tim hòa hoãn trong tiêu chuẩn 70-80, vì thiếu máu nên nhịp tim mới cao 120, là nhịp tim đã đâp nhanh hơn 120 trừ 80 = 40 nhịp
Lấy số tâm thu 120 trừ 40 ra áp huyết thật tâm thu 80mmHg, áp huyết thật tâm trương 80mmHg trừ ½ của 40 nhịp thì còn 60mmHg là lượng máu
Như vậy áp huyết giả 140/80mmHg nhịp tim 120 đổi sang áp huyết thật là 80/60mmHg 80, đây là ung thư gia đoạn 3 theo YHBS
Ai có áp huyết thật tâm thu 90mmHg là ung thư giai đoạn 1
Ai có áp huyết thật tâm thu 85mmHg là ung thư giai đoạn 2
Ai có áp huyết thật tâm thu 80mmHg là ung thư giai đoạn 3
Ai có áp huyết thật tâm thu 75mmHg là ung thư giai đoạn 4
Ai có áp huyết thật tâm thu 70mmHg là giai đoạn chết
Do đó ai đang chữa ung thư theo tây y, hãy đo áp huyết giả chuyển đổi thành áp huyết thật sẽ biết tây y chữa đúng là từ giai đoạn 4 lên 3, lên 2, lên 1, lên 95mmHg thì hết tế bào ung thư, nhưng ăn uống kiêng khem lại thiếu khí oxy tâm thu, thiếu máu tâm trương, thiếu đường, nhịp tim thấp như có áp huyết thật là 90/60mmHg nhịp tim 60 cũng là ung thư giai đoạn 1 mà tây y chưa phát hiện vì thử giấy qùy pH nước bọt còn kiềm tính, nếu pH nước bọt là acid như pH 5.5 trở xuống là sang giai đoạn ung thư 2,3,4 rồi.
Tại sao nhịp tim cao là thiếu lượng máu, chứ không phải thiếu tỷ lệ hồng cầu, bạch cầu .
Thí dụ trẻ em cân nặng 30kg thì lượng máu trong người là 3 lít máu, như 40kg là 4 lít máu, 50kg là 5 lít máu, 60kg là 6 lít máu…thì nhịp tim đều hòa hoãn trong tiêu chuẩn tuổi.
Cho nên tuổi lão niên, thí dụ nặng 60 kg có 6 lít máu thì nhịp tim 70-80, giống như 1 công việc giao cho 10 người làm thong thả trong 1 giờ xong thì nhịp tim hòa hoãn, nhưng bớt đi 5 người cũng phải làm xong việc đó trong 1 giờ thì họ phải làm nhanh hơn, mệt hơn, thì nhịp tim đập nhanh hơn, là tại sao, tại thiếu lượng người, ví như thiếu lượng máu. Nên vừa nhìn vào áp huyết ai có nhịp tim cao là biết ngay người đó thiếu máu trầm trọng, sẽ bị ung thư, nguyên nhân do thiếu đường.
Theo lý thuyết tây y, đường glucose kết hợp với chất đạm protein biến thành máu, nếu ăn đạm mà thiếu đường thì thức ăn không biến thành máu, thì thừa đạm biến thành đàm, nên xét nghiệm máu đường thấp 3.9-6.2mmol/l thì kết quả thử máu cho biết mỡ máu cao, cholesterol, triglyceride cao
Chúng ta có thể thử nghiệm lý thuyết này, ăn đạm protein mà đường huyết 5.0mmol/l, thì xét nghiệm máu ghi kết quả đường glucose bình thường thì mỡ máu cao, ngược lại cũng lượng đạm giống nhau nhưng tăng lượng đường huyết lên 10mmol/l, đi xét nghiệm máu không bị mỡ máu cao, thì đường cao mới chuyển protein thành máu là tốt không phải bị bệnh tiểu đường, sẽ thấy cái sai của tây y về tiêu chuẩn đường huyết.
Thử nghiệm thứ hai, khi nhịp tim cao là thiếu máu, tâm trương tay phải trước khi ăn là 75mmHg, thiếu đường cơ thể mất máu sau khi ăn tâm trương tay phải bị tụt thấp còn 65mmHg là gan mất lượng máu, trong khi tâm trương tay trái cao hơn, nhịp tim cao, mà đường thấp 6.0mmol/l . Chúng ta uống ngay 10 thìa cà phê đường cát vàng, thử lại áp huyết, thì nhịp tim xuống thay vì 120 xuống còn 100, đo lại đường vẫn thấp, thì hỏi đường vừa uống nó đi đâu, chính nhờ nó đã làm hạ nhịp tim, tăng lượng máu tâm trương gan, tiếp tục uống 10 thìa cà phê đường cát vàng nữa, thử lại đường chỉ lên 7mmol/l, thì đường mất đi đâu, đo áp huyết sẽ thấy đường đã làm nhịp tim xuống thấp tiếp còn 90, như vậy áp huyết giả đổi sang áp huyết thật sẽ thấy ung thư giai đoạn 4 chuyển lên 3, rồi lên 2, rồi pH đang acid pH 5, lên pH 5,5 lên pH 6, lên kiềm pH 6,5, lên pH 7 là các tế bào ung thư trong cơ thể tự chết không sống nổi trong môi trường máu kiềm, còn ăn thức ăn bổ máu vừa tăng đường vừa tăng lượng máu, giảm
nhịp tim và khỏi ung thư nhanh nhất là ngoài ăn phở, uống đường, ăn bánh mì chấm sữa đặc Ông Thọ mỗi ngày trong 1 tháng tăng cân, khỏe mạnh.
Tại sao chúng ta lại tin vào cách thử đường huyết HbA1C, nghĩa của nó là đếm hạt đường thừa bám vào bề mặt hồng cầu. Nhưng chúng ta kiêng sợ không ăn đường, người gầy sụt cân mà thử HbA1C vẫn cao, thì hạt đường thừa ở đâu mà bám vào bề mặt hồng cầu, vì gan phải lấy mỡ chuyển thành đường như vậy chúng ta bị lừa có vẻ khoa học.
Thí dụ trước kia đường cao 11mmol/l=200mg/dl là bình thường khi thử ở tay, so sánh với cách thử HbA1C là 8% mỗi 3 tháng, tính ra tương đương 200mg/dl. Bây giờ hạ tiêu chuẩn đường thử ở tay xuống dưới 6mmol/l thì HbA1C cũng phải hạ xuống 6% cho tương xứng, nghe ra có vẻ khoa học, thực chất giống như đổi độ C ra độ F, như trước kia chúng ta giữ tiêu chuẩn độ 11 dộ C, thì độ F cũng phải tương đương, nay ha độ C xuống 6 độ thì độ F cũng phải xuống tương đương, nhưng những tế bào nào có dính hạt đường 3 tháng tế bào ấy chết thay vào tế bào mới mà mình vẫn kiêng đường thì làm gì lại có tế bào mới nào dính hạt đường, thế mà thực tế lúc nào thử HbA1C cũng cao, quả là cú lừa tinh vi.
Giáo sư Mona Nahmias nói :
Liệu giáo điều chống đường có đi quá xa khi một số người hiện nay tránh ăn trái cây vì sợ đường?
Những người này nhầm lẫn giữa: đường: sucrose và đường từ trái cây: fructose. Mật ong được xếp vào loại đường fructose.
Đường fructose tốt cho cơ thể, không gây vấn đề gì cho người bị tiểu đường.
Bệnh tiểu đường không phải do đường gây ra. Thay vào đó, chính sự thiếu hụt insulin trong cơ thể mới gây ra bệnh tiểu đường.
Theo Y Học Bổ Sung, có nghĩa thiếu hụt insulin do lười vận động, vì tập thể dục đều làm hạ đường huyết, tuy nhiên kiêng ăn đường mà tập thể dục quá sức lại làm cơ thể tiêu hao năng lượng là cơ thể bị mất đường.
Theo kinh nghiệm của môn Y Học Bổ Sung, phân biệt 2 loại đường huyết thiếu mà nhịp tim cao, và đường huyết thiếu mà nhịp tim thấp sau khi nghỉ ngơi, đều dẫn đến hậu quả bệnh tim mạch khác nhau :
Trường hợp 4 : Thiếu đường nhịp tim cao, áp huyết thấp sau khi ăn.
Thí dụ 1 : Bệnh nhân tuổi trung niên
Áp huyết tay trái 100/71mmHg 106, tay phải 99/67/107, đường 103mg/dl
Ngoài dấu hiệu bệnh về tim mạch như kể trên, nhưng bệnh nhân sẽ chết về bệnh ung thư, vì đây là áp huyết giả so với tiêu chuẩn áp huyết tuổi trung niên sau khi ăn là 130/80mmHg 75.
Nhịp tim 107 cao hơn tiêu chuẩn 75 của tuổi trung niên là 32 nhịp, lấy số áp huyết tâm thu 99 trừ 32 thì áp huyết tâm thu thật sẽ là 67mmHg, tâm trương thật 67 trừ ½ của 32 là lượng máu còn 51, áp huyết thật sẽ là
67/51mmHg 75, đây là áp huyết chết, nên người mệt, suy tim, nguyên nhân do đường huyết thấp, cần bổ sung đường và máu, không gì nhanh hơn là pha 4 thìa canh sữa đặc Ông Thọ pha thêm 8 thìa cà phê đường cát vàng, dùng bánh mì mềm chấm vào sữa này ăn, sau 15 phút đo lại áp huyết
Tay trái 107/75mmHg 94, tay phải 111/79mmHg 94, đường 125mg/dl.
Chúng ta thắc mắc ăn nhiều sữa và đường như thế tại sao đường huyết không tăng cao mà chỉ có 125mg/dl, vậy đường nó mất đi đâu, nó đã làm số nào thay đổi. Nó đã làm nhịp tim hạ xuống thấp, làm tăng tâm thu, tâm trương. Đổi sang áp huyết thật bây giờ sẽ lả :
Nhịp tim 94 so với tiêu chuẩn 75, thì nhanh hơn 19 nhịp, áp huyết tâm thu bên gan 111 trừ 19, áp huyết tâm thu thật là 92mmHg, như vậy nhờ sữa Ông Thọ và đường đã làm tăng máu, hạ nhịp tim, tăng tâm thu thật lả 92mmHg so với tiêu chuẩn áp huyết tâm thu 90mmHg là đã thoát khỏi ung thư giai đoạn 1.
Đường huyết 125mg/dl còn thấp, nếu để đường huyết tụt thấp mỗi giờ mất 10mg/dl thì áp huyết lại trở thành áp huyết ung thư, nên phải tiếp tục ăn bánh mì chấm sữa Ông Thọ pha thêm đường, sau 15 phút đo lại áp huyết bên tay phải tăng lên 120/82mmHg 93, đường huyết 10mmol/l, đổi sang áp huyết thật : 93-75=18, nhịp tim nhanh hơn 18 nhịp, áp huyết tâm thu thật sẽ là 120-18= 102mmHg là thoát khỏi ung thư.
Ung thư có 2 loại, gọi là bướu lành với điều kiện thử pH nước bọt kiềm tính là bướu lành chứ không phải ung thư, nếu pH acid 5.5 là bướu độc mới là tế bào ung thư.
Do đó tùy theo thức ăn mỗi ngày chúng ta ăn sai, thiếu khí, thiếu máu, thiếu đường thì máu mỡ đông đặc thành bướu, thức ăn trong bao tử không tiêu lên men thừa acid thì các tế bào bị đói do thiếu máu, thiếu khí oxy, thiếu đường sống trong môi trường máu acid thì trở thành tế bào ung thư. Chúng ta phải đo áp huyết theo dõi mỗi bữa ăn để kịp thời điều chỉnh tinh-khí-thần hòa hợp, đủ khí, đủ máu, đủ đường thì không bị bệnh tim mạch và không bị ung thư.
Trường hợp 5 : Thiếu đường nhịp tim cao, áp huyết cao sau khi ăn.
Có hai trường hợp như :
a-Sau khi ăn tay trái 150/90mmHg 120, tay phải 160/110mmHg 123, đường 6mmol/l.
Tay phải tâm thu cao 160mmHg chưa đến nỗi bị tai biến, nhưng tâm trương cao 110mmHg có nguy cơ đột quy, nguyên nhân thức ăn trong bao tử không tiêu do thiếu đường chuyển hóa thức ăn. Nhịp tim cao là âm hư nội nhiệt trong người nóng, đường thấp thì ngoài da chân tay lạnh phải mặc áo lạnh là dấu hiệu ung thư, sẽ bị đột qụy về bệnh tim mạch bất cứ lúc nào.
Cách cấp cứu : Uống ngay 1 lon Pepsi cho ợ hơi tiêu thức ăn trong bao tử và làm tăng đường hạ áp huyết, hạ nhịp tim thì thoát khỏi đột quỵ, nhịp tim cao, sau khi uống Pepsi, đo đường không tăng chỉ có 7mmol/l trong trường hợp này đổi ra áp huyết thật sẽ là :
123 trừ nhịp tim tiêu chuẩn 75 = nhanh hơn 45 nhịp
Áp huyết tâm thu tay phải 160 trừ 45 = Áp huyết tâm thu thật là 115mmHg nên không phải bị ung thư
Áp huyết thật bây giờ là 115/87mmHg 75 đường huyết 7mmol/l.
Cứ mỗi 2 giờ đường huyết tụt 1mmol/l cho tim phổi hoạt động, khi đói đường thấp thì áp huyết tâm thu, tâm trương tụt thấp, nếu bụng trống, đường huyết trước khi di ngủ thấp 7mmol/l. sau khi ngủ 6 tiếng đường sẽ tụt thấp 3mmol/l thì chỉ còn 4mmol/l áp huyết tụt thấp, máu đông không chạy vào tim khiến tim đập nhanh để thu hút máu về tim tuần hoàn làm nhịp tim đập nhanh mạnh lại trở thành thiếu máu cơ tim, tim ngừng đập đột tử trong đêm, đó là lý do, áp huyết, đường huyết thay đổi đều do lượng đường huyết thấp.
Vừa ngừa ung thư do tế bào máu sống trong môi trường acid, đo pH nước bọt 5.5, cần uống 1 thìa baking soda, và vì là loại muối mặn khó uống phải pha thêm 5 thìa cà phê đường cát vàng cho dễ uống và làm tăng đường huyết cao cho máu khỏi bị đóng đông, luôn giữ cho pH nước bọt trên 6.5 thuộc kiềm, thì máu mỡ đóng đông kết cục thành bướu cũng chỉ là bướu lành, không phải ung thư, đường cao trong nhiệt độ trên 36 độ C và nhịp tim trong tiêu chuẩn tuổi thì tốc độ bơm máu hòa hoãn, thân thể ấm áp, thì máu mỡ đặc lại hóa lỏng theo máu tuần hoàn thì bướu lành sẽ nhỏ và biến mất từ từ.
b-Sau khi ăn áp huyết tay trái 95/67mmHg 85, đường 5.2mmol/l.
Người này đang bị ung thư, bệnh nhân cho biết đang bị ung thư phổi, và hỏi tôi, tại sao thầy biết.
Khi đường huyết thấp thì máu đặc và đường thấp nhiệt độ chân tay lạnh, nhịp tim cao là thiếu máu, là áp huyết giả đổi sang áp huyết thật, lấy 85 trừ 75 theo tuổi trung niên, thì nhịp tim nhanh hơn 10 nhịp, tâm thu giả là 95 trừ 10 thành tâm thu thật là 85 mmHg là ung thư giai đoạn 2.
Tôi nói, nếu không biết điều chỉnh lại tinh-khí-thần là ăn uống thì sẽ trở thành ung thư giai đoạn 3, 4. Hãy theo dõi áp huyết khi chữa theo tây y mà giai đoạn ung thư càng tăng thì tây y chữa sai làm cơ thể suy nhược, suy dinh dưỡng.
Cách chữa :
Cần bổ máu là ăn thức ăn bổ máu, bổ đường, bổ khí nhanh, theo lý thuyết tây y glucose kết hợp protein thành máu, thì phải cần đường với đạm, rõ ràng đường huyết thấp chỉ có 5.2mmol/l. Như vậy hãy thử pha 5 thìa sữa đặc Ông Thọ loại sữa các bé không bú sữa mẹ mà uống sữa Ôn Thọ cơ thể vẫn phát triển khỏe mạnh, trong 1 hộp sửa Ông Thọ có 300ml = 20 thìa canh, chứa 12g đường cát vàng, đối với trẻ em là đủ, nhưng với người lớn thì pha 5 thìa canh mỗi thìa 15ml chỉ chứa 3g đường thì không đủ, nên phải pha thêm 10 thìa cà phê đường cát vàng để làm tăng đường huyết, dùng mẩu nhỏ bánh mì mềm chấm sữa ăn, không pha nước sẽ nặng bụng và làm loãng đường thì đường huyết không tăng cao.
Sau khi ăn 15 phút đo lại áp huyết và đường huyết, tay trái 118/75mmHg 80, tay phải 115/72mmHg 78, đường huyết 10mmol/l.
Đổi ra áp huyết thật, thì nhịp tin nhanh 3 nhịp, như vậy áp huyết thật sẽ là
112/70mmHg 75 đường huyết 10mmol/l, trước khi đi ngủ là an toàn, sáng ngủ dậy đo trước khi ăn sáng tay trái 100/68mmHg 74, tay phải 110/66mmHg 70, đường huyết 7mmol/l, chứng tỏ bệnh nhân ngủ 6 tiếng đường huyết tụt 3mmol/l, còn lại 7mmol/l khi đói là an toàn.
Nếu bệnh nhân giữ nguyên áp huyết tay trái 95/67mmHg 85, đường 5.2mmol/l.trước khi đi ngủ mà không bổ sung sữa Ông Thọ, thì bệnh nhân sẽ mất ngủ do thiếu đường, nếu ngủ được thì khi đường xuổng 3mmol/l thì tim ngưng đập bệnh nhân sẽ chết trong đêm sau khi ngủ được 3 tiếng là rơi vào hôn mê sâu, có dấu hiệu báo trước bằng tiếng kêu ú ớ hay như tự nhiên ngáy to, la to như ác mộng thật ra là tiếng kêu cầu cứu rồi ngủ luôn giấc ngủ ngàn thu. Nếu có người nhà nằm bên cạnh lay gọi bệnh nhân dậy, cho uống đường cho tỉnh lại thì thoát chết, như vậy những ai thiếu đường trước khi đi ngủ dễ bị chết trong đêm, nên Y Học Bổ Sung khuyến nghị trước khi đi ngủ phải đo đủ đường huyết lên 10mmol/l hay 180mg/dl sẽ ngủ ngon, an toàn cho tim mạch, sáng ngủ dậy còn 7-8mmol/l hay 130-140mg/dl sẽ không bị suy tim.
Đó là cách Y Học Bổ Sung luôn điều chỉnh Tinh-Khí-Thần từng mỗi bữa ăn để khí-máu-đường lọt vào tiêu chuẩn, và muốn thức ăn chuyển hóa tốt và nhanh, tùy theo áp huyết sau khi ăn mà cao hơn tiêu chuẩn thì uống ngay 1 lon Pepsi có đường, không phải Pepsi diet, sau 30 phút làm tiêu hóa hết thức ăn xuống ruột thì áp huyết xuống thấp, và bớt ăn mặn, thức ăn bớt muối sẽ không làm tăng áp huyết.
Ngược lại sau khi ăn áp huyết thấp, 30 phút sau uống 1 lon Coca có đường, không phải Coca diet, làm tiêu hết thức ăn khỏi bị mệt tim, và làm tăng áp huyết là tăng khí lực cho tim bơm máu tuần hoàn hòa hoãn, thức ăn thêm muối để làm tăng áp huyết.
(tiếp thoe PHẦN 14)