TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 7 Tháng 4 05, 2025 11:46 am

SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO ÁP HUYẾT CỦA TÂY Y VÀ ĐÔNG Y KHÍ CÔNG Y ĐẠO VIỆT NAM
https://youtu.be/CTWuHFcbqHE

PHẦN 1 :
NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO ÁP HUYẾT CỦA TÂY Y.
Để theo dõi những kinh nghiệm chữa bệnh của các bác sĩ trên thế giới, tôi đặt những câu hỏi này lên google, nếu hỏi bằng tiếng Việt, thì rất ít tin tức, chứng tỏ các bác sĩ giáo sư tiến sĩ đầu ngành ở Việt Nam không có nghiên cứu chuyên sâu về 6 vấn đề này, nên không biết tầm quan trọng của 3 số đo áp huyết.
1-Áp huyết tâm thu cao hơn 142mmHg gây ra những bệnh gì ?
2-Áp huyết tâm thu thấp hơn 90mmHg gây ra những bệnh gì ?
3-Áp huyết tâm trương cao hơn 85mmHg gây ra những bệnh gì ?
4-Áp huyết tâm trương thấp dưới 60mmHg gây ra những bệnh gì ?
5-Nhịp tim cao hơn 100 gây ra những bệnh gì ?
6-Nhịp tim thấp hơn 60 gây ra những bệnh gì ?
Nhưng nếu đặt 6 câu hỏi này bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, thì có quá nhiều những kinh nghiệm của các bác sĩ nước ngoài, họ đã hệ thống được nguyên nhân và hậu quả và cách chữa giống như cách chữa theo đông y đã có từ hơn 2000 năm vẫn còn có giá trị cho đến ngày nay, là nhân quả ngũ hành theo Mẹ-Con cũng là đo khí hay huyết hư hay thực, hàn hay nhiệt thay cho phương pháp bắt mạch cổ điển của đông y bằng máy đo áp huyết đo ở 2 tay theo phương pháp Y Học Bổ Sung Khí Công Y Đạo đã ra đời hơn 30 năm qua. Các bác sỉ ở Việt Nam còn không hiểu ý nghĩa của các con số đo áp huyết, làm sao chữa bệnh đúng vào nguyên nhân gốc bệnh trong khi các bác sĩ nước ngoài họ đã hiểu giá trị của 3 số đo áp huyết có hệ thống, từ nguyên nhân đến hậu quả.
Đối với Đạo Phật có lý thuyết nhân quả 3 đời, như tại sao đời này làm người tốt sao vẫn khổ, là do nhân đời trước làm những việc xấu phải lãnh hậu quả ở kiếp này, nhưng kiếp này làm người tốt là nhân tốt cho kiếp sau được hưởng quả tốt.
Còn đối với bệnh tật con người, thì có nhân quả 3 thời, là thời quá khứ là nguyên nhân mới gây ra hậu quả các số đo áp huyết bị lệch chuẩn là hiện tại, và vì nguyên nhân lệch chuẩn các số đo áp huyết sẽ gây ra hậu quả bệnh trong tương lai. Theo nhân quả 3 thời đối với tây y là sự khám bệnh xét nghiệm máu giữa 2 chu kỳ 3 tháng hay 6 tháng hay 1 năm mới biết kết quả rồi mới đưa ra cách chữa.
Khác với tây y, nhân quả 3 thời của đông y xẩy ra từng mỗi bữa ăn, như trước bữa ăn thầy thuốc đông y bắt mạch thấy lệch chuẩn, nhưng không chính xác bằng dùng máy đo áp huyết thì chắc chắn 3 số đo áp huyết sẽ hiện ra lệch chuẩn bằng các con số chính xác là nguyên nhân gây ra bệnh, và sau khi ăn bắt mạch lại bằng máy đo áp huyết thấy ăn sai, hiện ra số tâm thu khí lực, số tâm trương huyết lực, và hàn nhiệt cũng lệch chuẩn thì hậu quả lại gây ra thêm các bệnh khác nặng hơn, từ đó nếu không biết cách điều chỉnh lại cách ăn uống bằng cách bổ hay tả như con hư bổ mẹ, mẹ thực tả con, nghĩa là khí thực là dư thừa thì tả làm bớt thực, khí hư thì bổ cho tăng thêm khí, huyết thực dư thừa thì bớt ăn, huyết thiếu phải bổ bằng cách ăn thêm thức ăn bổ tạo máu, khí hay huyết làm người lạnh là nhịp tim thấp thì phải bổ thêm đường, gừng cho tăng nhịp tim làm người ấm, khí huyết trong người làm người nóng, làm nhịp tim cao thì phải bớt ăn những thức ăn cay nóng, bớt đường gừng mà uống nước mía sẽ làm cho nhịp tim hạ thấp về chuẩn.
Các bác sĩ hay thầy thuốc đông y ở Việt Nam lười không chịu nghiên cứu học hỏi thì tạm thời tham khảo và áp dụng công trình nghiên của các bác sĩ tây y nước ngoài, xem họ khám định bệnh có đúng không, để cập nhật cái mới của tây y, cho đến khi họ nghiên cứu hoàn tất được một phần nhỏ kiến thức đông y từ môn học Khí Công Y Đạo Y Học Bổ Sung của người Việt Nam rồi phổ biến đưa vào chương trình giảng dạy chính thức bắt buộc của tây y trên khắp thế giới, thì họ trở thành thầy dạy lại mình, cho các bác sĩ Việt Nam phải học lại những kiến thức đã có sẵn của nền đông y Việt Nam lúc đó mới được hợp thức hóa lại bằng cấp hành nghề mới thật là đáng nhục.
Những nghiên cứu của các bác sĩ tây y nước ngoài ở khắp các nước trên thế giới như dưới dây :
I-ÁP HUYẾT TÂM THU
1Áp huyết tâm thu cao hơn 142mmHg gây ra những bệnh gì ?
a-Nguyên nhân :
Trước đây các bác sĩ coi chỉ số tâm trương quan trọng hơn, vì quan điểm chung là áp huyết tâm thu thường tăng theo tuổi tác, số tâm thu thường bị bỏ qua trừ khi nó cưc kỳ nằm ngoài phạm vi, tuy nhiên huyết áp tâm trương được điều trị bằng thuốc ngay cả khi nó hơi lệch một chút, người ta hiểu rằng áp suất cơ bản khi tim nghỉ ngơi quyết định sức khỏe tổng thể của tim.
Nhưng một số nghiên cứu gần đây lại đưa ra kết luận khác, trước tiên hãy xem xét nguy cơ mắc bệnh áp huyết tâm thu cao nguyên nhân có thể do động mạch cứng, tuyến giáp hoạt động quá mức hoặc thậm chí là bệnh tiểu đường, đôi khi có thể do các vấn đề về van tim và người lớn tuổi có nguy cơ cao bị huyết áp tâm thu cao.

b-Hậu quả :
Trên thực tế huyết áp tâm thu cao là dạng phổ biến nhất của áp huyết cao như 142mmHg ở những người trên 65 tuổi, và nếu bạn trên 50 tuổi và có số áp huyết tâm thu cao, bạn có thể có nguy cơ cao mắc các vấn đề về tim mạch nghiêm trọng như :
Đau tim, đột quỵ chảy máu hoặc đau dữ dội ở ngực được gọi là đau thắt ngực, huyết áp tâm thu cao thậm chí có thể dẫn đến bệnh thận mãn tính, đây đều là tình trạng bệnh lý rất nghiêm trọng,

2-Áp huyết tâm thu thấp hơn 90mmHg gây ra những bệnh gì ?
Những bệnh do áp huyết tâm thu thấp hơn 90mmHg :
Huyết áp thấp là tình trạng khí lực của máu tác động vào thành động mạch quá thấp. Tình trạng này còn được gọi là hạ huyết áp. Huyết áp được đo bằng milimét thủy ngân (mm Hg). Nhìn chung, huyết áp thấp là chỉ số thấp hơn 90/60 mm Hg.
a-Nguyên nhân :
Nguyên nhân gây ra huyết áp thấp bao gồm mất nước và các tình trạng bệnh lý nghiêm trọng khác. Điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân gây ra huyết áp thấp để có thể điều trị nếu cần.
Nguyên nhân tiềm ẩn của huyết áp thấp
Huyết áp thấp có thể xảy ra với:
Nghỉ ngơi trên giường kéo dài
Đứng lâu
Trầm cảm
Bệnh Parkinson
Mang thai
Mất nước
Một số loại thuốc và chất nhất định có thể gây ra huyết áp thấp bao gồm:
Thuốc lợi tiểu và các loại thuốc khác điều trị huyết áp cao
Thuốc tim như thuốc chẹn beta
Thuốc điều trị bệnh Parkinson
Thuốc chống trầm cảm ba vòng
Thuốc điều trị rối loạn cương dương, đặc biệt là khi kết hợp với nitroglycerin
Thuốc gây nghiện

b-Hậu quả :
Tuy nhiên, huyết áp thấp có thể gây chóng mặt và ngất xỉu. Đôi khi, huyết áp thấp có thể đe dọa tính mạng.

II-HUYẾT ÁP TÂM TRƯƠNG :

Huyết áp tâm trương cao cũng như thấp chỉ ra rằng có thể có một rối loạn tim tiềm ẩn và cả hai đều làm tăng thêm nguy cơ mắc các rối loạn tim mạch.

1-Huyết áp tâm trương thấp dưới 70mmHg biểu thị điều gì?
Huyết áp tâm trương được đo khi tim nghỉ ngơi và đang được bơm đầy máu. Nói tóm lại, huyết áp tâm trương là áp suất trong động mạch khi cơ tim đang thư giãn. Chỉ số huyết áp lý tưởng bình thường là 120/80 mmHg, theo đó, huyết áp tâm trương được coi là 80 mm Hg. Có thể thấy sự thay đổi từ thấp 70 mmHg đến cao 90 mmHg trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, nó cũng có thể chỉ ra nguy cơ tăng huyết áp (tăng huyết áp) hoặc huyết áp thấp (hạ huyết áp).

Huyết áp tâm trương thấp có nghĩa là áp suất được ghi lại dưới 70 mm Hg. Nó được coi là huyết áp thấp hoặc hạ huyết áp. Nó có thể hơi thấp, chỉ số đọc từ 80 đến 70 mmHg ở một số cá nhân và có thể là một phát hiện bình thường. Tuy nhiên, khi huyết áp tâm trương giảm xuống dưới 70 mmHg, nó có thể dẫn đến các vấn đề về sức khỏe
b-Hậu quả :
Huyết áp tâm trương thấp dưới 70mmHg có thể chỉ ra các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn, cần được đánh giá và điều trị. Huyết áp tâm trương thấp liên tục có thể làm giảm lưu lượng máu đến các cơ quan chính và thậm chí có thể gây tổn thương cho tim, não, thận và mắt. Một số nghiên cứu cho thấy huyết áp tâm trương thấp hơn thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng cao. Những trường hợp như vậy cần được điều trị y tế tích cực ngay lập tức.
2-Nguyên nhân nào gây ra áp huyết tâm trương cao trên 93mmHg
a-Nguyên nhân :
Huyết áp tâm trương cao là một loại tăng huyết áp. Các bác sĩ không biết chính xác lý do tại sao nó xảy ra, nhưng béo phì, mức triglyceride cao, hút thuốc và rượu có thể góp phần gây ra. Các bác sĩ mô tả huyết áp bằng hai biện pháp: huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương. Huyết áp tâm thu đo áp suất trong quá trình co bóp của tim, trong khi huyết áp tâm trương là áp suất trong khoảng thời gian giữa các nhịp tim.Nhiều người rất coi trọng số huyết áp tâm thu. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy rằng mỗi lần tăng 10 milimét thủy ngân (mm Hg) trong huyết áp tâm trương ở những người từ 40–89 tuổi sẽ làm tăng gấp đôi nguy cơ mắc bệnh tim hoặc đột quỵ. Các bác sĩ định nghĩa tăng huyết áp tâm trương đơn độc (IDH isolated diastolic hypertension) hoặc huyết áp tâm trương cao là trên 80mmHg ở những người có huyết áp tâm thu bình thường.
b-Hậu quả :
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét những rủi ro khi bị huyết áp tâm trương cao có thể làm suy yếu động mạch chính của cơ thể, nó chạy từ tim qua bụng và sau đó phân nhánh thành các động mạch riêng biệt vào chân, một phần động mạch chủ bị suy yếu ở vùng bụng có thể biến thành một khối phình, khối phình này là do kéo căng quá mức của động mạch chủ ở vùng bụng áp suất tâm trương cao như 93mmHg liên tục có thể làm phình vỡ và điều này dẫn đến chảy máu trong nghiêm trọng có thể gây tử vong, thuật ngữ y khoa có tình trạng đe dọa tính mạng này là phình động mạch chủ bụng (abdominal aortic aneurysm).
Huyết áp tâm trương cao: Nguy cơ đột quỵ và cách phòng ngừa theo MedShun
26 tháng 11 năm 2024 · Các biến cố tim mạch: Nếu một cá nhân đã trải qua một sự cố làm tổn thương cơ tim, nguy cơ mắc IDH của họ sẽ tăng lên. Bệnh tiểu đường: Những người bị tiểu đường và lượng đường trong máu tăng

3-Huyết áp tâm trương cao trên 85mmHg biểu thị điều gì ?

a-Nguyên nhân :
Nếu một cá nhân có huyết áp tâm trương tăng cao, họ sẽ bị tăng huyết áp tâm trương đơn độc IDH. Các bác sĩ phân loại IDH giai đoạn 1 là huyết áp tâm trương từ 80–89 mmHg và loại IDH giai đoạn 2 là huyết áp tâm trương trên 90 mm Hg
Các bác sĩ không hiểu tại sao một cá nhân có thể bị tăng huyết áp tâm trương. Họ cho rằng tình trạng này có thể là do các tiểu động mạch bị hẹp do hormone trong cơ thể.
Một số nghiên cứu cho thấy tiêu thụ rượu góp phần gây ra IDH. Trong mọi trường hợp, nếu huyết áp tâm trương cao hơn, có thể coi là tăng huyết áp, bất kể huyết áp tâm thu là bao nhiêu.
Nguyên nhân gây ra huyết áp tâm trương cao có thể bao gồm các tình trạng bệnh lý tiềm ẩn như tiểu đường, béo phì, thói quen ăn uống như ăn nhiều thực phẩm giàu cholesterol, muối hoặc đường và sở thích về lối sống như hút thuốc, uống rượu và thiếu hoạt động thể chất. Đôi khi, các yếu tố di truyền cũng đóng vai trò và khi chế độ ăn uống và lối sống kém được thêm vào, kết quả có thể là huyết áp tâm trương cao.
Các bác sĩ thường liên kết tăng huyết áp với béo phì. Tuy nhiên, họ cũng liên kết tình trạng thừa cân hoặc béo phì với IDH.
Các nguyên nhân phổ biến gây ra IDH bao gồm:
Rối loạn nội tiết
Rối loạn mạch máu thận
Ngưng thở khi ngủ
Tuy nhiên, một số nguyên nhân tiềm ẩn và có thể phòng ngừa được của IDH cũng bao gồm:
Béo phì
Có một số yếu tố nguy cơ gây huyết áp tâm trương cao mà một người không thể kiểm soát được.Bao gồm:
Tuổi: Tăng huyết áp tâm trương thường gặp ở những người dưới 50 tuổi. IDH hiếm gặp ở người lớn tuổi.
Tiền sử gia đình: Có thành viên trong gia đình bị tăng huyết áp làm tăng nguy cơ mắc IDH của một cá nhân.

b-Hậu quả :
Huyết áp tâm trương cao hơn 85mmHg, có thể gây khó thở, thở gấp và ảnh hưởng đến cơ tim khiến tim cứng lại và không cho phép tim co bóp và thư giãn hiệu quả. Huyết áp tâm trương cao có thể chỉ ra nguy cơ đau ngực, đau tim và suy tim tăng lên, đặc biệt là suy tim tâm trương. Nó cũng có thể gây tổn thương cho các cơ quan như thận, mắt, mạch máu và tăng nguy cơ xuất huyết và đột quỵ.
Các bác sĩ định nghĩa tăng huyết áp tâm trương đơn độc (IDH) hoặc huyết áp tâm trương cao là trên 80mmHg (Trusted Source=Nguồn đáng tin cậy) ở những người có huyết áp tâm thu bình thường.
Cao hơn 95mmHg có thể gây tử vong thuật ngữ y khoa có tình trạng đe dọa tính mạng này là phình động mạch chủ bụng (abdominal aortic aneurysm).
Tăng triglyceride, hay mỡ máu đặc, là một nguyên nhân tiềm ẩn khác gây ra IDH mà các bác sĩ cũng liên kết với các nguy cơ sức khỏe khác.
Gần 1 trong 3 người Mỹ có triglyceride cao. Khi các chất béo trong máu này cao, chúng làm giảm cholesterol HDL "tốt". Nếu những người có triglyceride máu cao và cholesterol LDL "xấu" cao, điều này làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ.
Huyết áp tâm trương cao có thể gây khó thở, thở gấp và ảnh hưởng đến cơ tim khiến tim cứng lại và không cho phép tim co bóp và thư giãn hiệu quả. Huyết áp tâm trương cao có thể chỉ ra nguy cơ đau ngực, đau tim và suy tim tăng lên, đặc biệt là suy tim tâm trương. Nó cũng có thể gây tổn thương cho các cơ quan như thận, mắt, mạch máu và tăng nguy cơ xuất huyết và đột quỵ.
Nếu một cá nhân bị tăng huyết áp, họ sẽ có cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương tăng.

III-VỀ NHỊP TIM

1-Tại sao nhịp tim nhanh hơn 100 lại nguy hiểm
"Hiệu ứng này thậm chí còn được gọi là 'hội chứng tim ngày lễ', vì những người thường không uống nhiều có thể gặp phải tình trạng này với bạn bè hoặc gia đình trong kỳ nghỉ", Tiến sĩ Sarraju chia sẻ :
Mất nước cũng làm tăng nhịp tim. Đó là vì cơ thể bạn cố gắng bù đắp cho lượng nước giảm bằng cách bơm nhiều máu hơn nhanh hơn.
Tên gọi chung cho tình trạng gây ra những nhịp đập nhanh hơn đó là nhịp tim lạc chỗ. Bạn có thể đang trải qua các cơn co thắt thất sớm (PVC) hoặc co thắt nhĩ sớm (PAC), tùy thuộc vào tình trạng cá nhân của bạn. Mặc dù có thể cảm thấy như tim bạn bị mất nhịp, nhưng thực tế lại ngược lại: Tim bạn thực sự đập nhiều hơn bình thường.

"PVC và PAC là nhịp tim không đều trong đó nhịp đập bình thường tiếp theo là nhịp đập nhanh hơn, có thể từ buồng tim trên (PAC) hoặc buồng tim dưới (PVC)", bác sĩ tim mạch Leslie Cho, MD cho biết.

PVC rất phổ biến: Có tới 75% mọi người mắc phải. Và PAC rất phổ biến ở người lớn, nhưng hiếm khi xảy ra ở trẻ em không có vấn đề về tim tiềm ẩn.

Bạn có nên lo lắng về nhịp tim thêm không?
PVC và PAC có thể hơi lạ, nhưng chúng hiếm khi là nguyên nhân gây lo ngại — miễn là bạn khỏe mạnh. Tuy nhiên, khi nói đến nhịp tim của bạn, tốt nhất là luôn chắc chắn.

2-Sự khác biệt giữa huyết áp và nhịp tim là gì?
Khi tìm hiểu về huyết áp cao, bạn có thể thấy nhịp tim được đề cập liên quan đến việc tập thể dục.
Huyết áp là lực của máu khi di chuyển qua các mạch máu.
Nhịp tim là số lần tim bạn đập mỗi phút. Nhịp tim thường được gọi là mạch đập.

Hiểu được nhịp tim có thể giúp bạn theo dõi mức độ thể lực và sức khỏe tim mạch của mình. Nó thậm chí có thể giúp bạn phát hiện ra các vấn đề sức khỏe.

Những thay đổi về nhịp tim có thể gợi ý tình trạng tim hoặc các vấn đề sức khỏe khác, đặc biệt là khi bạn già đi.

a-Nguyên nhân gây ra nhịp tim thấp (bradicardia)
Nhiều thứ có thể gây ra nhịp tim chậm. Nguyên nhân gây ra nhịp tim thấp bao gồm:
Suy tim (Heart failure)
Nguyên nhân phổ biến nhất gây ra nhịp tim chậm là trục trặc ở máy tạo nhịp tim tự nhiên của tim, nút xoang. Nó kiểm soát tốc độ bơm máu của các buồng tim trên và dưới qua cơ thể.

Chặn AV
Một nguyên nhân khác gây ra nhịp tim chậm là chặn nhĩ thất (atrioventricular block =AV block),chặn AV), trong đó các buồng tim trên và dưới không giao tiếp tốt và nhịp tim của bạn giảm xuống do đó.

Tiến sĩ Baez-Escudero cho biết: "Giống như có dây cáp điện ảo bên trong tim". "Những thứ này sẽ xấu đi khi chúng ta già đi. Các loại thuốc thông thường được sử dụng ở những người lớn tuổi cũng thường có thể làm nhịp tim chậm trở nên nghiêm trọng hơn".

Nhồi máu cơ tim do bệnh động mạch vành.
Nhiễm trùng do vi khuẩn trong máu tấn công tim.
Viêm cơ tim.
Chức năng tuyến giáp kém.
Mất cân bằng điện giải.=Electrolyte imbalance.
Quá nhiều kali trong máu.
Một số loại thuốc, bao gồm thuốc chẹn beta và thuốc chống loạn nhịp.
Bác sĩ Baez-Escudero cho biết các khuyết tật tim bẩm sinh, bệnh tiểu đường hoặc huyết áp cao lâu năm đều có thể khiến nhịp tim chậm có khả năng xảy ra nhiều hơn.

b-Hậu quả nhịp tim thấp là 60 nhịp mỗi phút (bpm) trở xuống.
Thiếu năng lượng.
Sức bền kém.
Chóng mặt.
Yếu.
Đau ngực.
Lú lẫn/vấn đề về trí nhớ.
Đánh trống ngực hoặc rung nhĩ.
Ví dụ, nếu nhịp tim của bạn giảm xuống mức 30, bạn có thể không nhận đủ oxy lên não, khiến bạn có thể bị ngất xỉu, choáng váng và khó thở. Máu cũng có thể ứ đọng trong các buồng tim, gây ra suy tim sung huyết.
Tương tự như vậy đối với giấc ngủ đêm của bạn. Nhịp tim thấp khi ngủ là bình thường. Khi bạn ngủ, nhịp tim của bạn thường chậm lại ở mức 40 đến 60 nhịp một phút.
Bạn nên tìm kiếm sự trợ giúp ngay lập tức nếu:
Nhịp tim của bạn đập ít hơn 60 lần một phút (nhịp tim chậm).
Bạn đang bị khó thở (khó thở).
Bạn đã ngất xỉu (ngất xỉu) hoặc mất ý thức, ngay cả khi chỉ trong thời gian ngắn.
Bạn bị đau hoặc cảm thấy tức ngực.
Bạn đang đổ mồ hôi, hoặc ẩm ướt, hoặc đột nhiên cảm thấy lạnh mà không rõ lý do.
Bạn bối rối, choáng váng hoặc chóng mặt.
Bạn cảm thấy cực kỳ yếu.
Bạn đột nhiên bị đau bụng, cánh tay, vai, cổ, hàm hoặc răng.

3-Block tim=Heart block

a-Nguyên nhân gây block tim là gì?
Block tim là vấn đề về tín hiệu nhịp tim di chuyển từ phần trên xuống phần dưới của tim. Tín hiệu chỉ có thể đi qua đôi khi hoặc không đi qua được. Điều này khiến tim bạn đập chậm hoặc bỏ nhịp. Những người bị block tim độ hai hoặc độ ba có thể bị ngất xỉu, mệt mỏi và khó thở.
Các nguyên nhân gây block tim bao gồm:
Nhồi máu cơ tim.=Myocardial infarction.
Bệnh động mạch vành (CAD=Coronary artery disease).
Bệnh cơ tim (bệnh cơ tim=Cardiomyopathy (heart muscle disease).).
Bệnh van tim.=Valvular heart disease.
Sẹo trong hệ thống dẫn truyền của bạn do nguyên nhân không rõ.
Các vấn đề về cấu trúc tim của bạn (từ khi sinh ra).
Tổn thương tim trong quá trình phẫu thuật tim hở.
Tác dụng phụ của thuốc (từ thuốc chẹn beta, digitalis và thuốc chẹn kênh calci).
Tiếp xúc với độc tố.
Ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn.
Bệnh tuyến giáp.
Nhiễm trùng như bệnh Lyme.
Bệnh tự miễn.
Bất thường về gen.

b-Hậu quả :
Đau ngực.
Mệt mỏi.
Khó thở.
Đánh trống ngực.
Thở nhanh.
Buồn nôn.
Chóng mặt.
Ngất xỉu.

c-Các bệnh tim khác như bệnh động mạch vành hoặc bệnh van tim.
Bạn đã có bất thường ở tim từ khi sinh ra.
Bạn mắc một căn bệnh (như bệnh tim thấp khớp hoặc bệnh sarcoidosis) ảnh hưởng đến tim.
Bạn bị dây thần kinh phế vị hoạt động quá mức khiến tim bạn chậm lại.
Bạn dùng thuốc khiến các xung điện của tim di chuyển chậm hơn. Các loại thuốc này có thể bao gồm thuốc tim và huyết áp (thuốc chẹn beta, thuốc lợi tiểu, thuốc chẹn kênh calci, digoxin), thuốc chống loạn nhịp, thuốc giãn cơ, thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm và thuốc chống loạn thần.

d-Các biến chứng của block tim là gì?
Các biến chứng có thể đe dọa tính mạng và bao gồm:
Suy tim.
Rối loạn nhịp tim (nhịp tim không đều).
Đau tim.
Ngừng tim đột ngột.
Hãy gọi cho bác sĩ nếu bạn gặp phải:
Chóng mặt hoặc ngất xỉu.
Đau ngực.
Nhịp tim nhanh hoặc nhịp tim ngừng đập.
Yếu.
Khó thở.
Sưng bàn chân, mắt cá chân hoặc chân.

3-Nhịp tim, huyết áp và tập thể dục
Nhịp tim mục tiêu của bạn dựa trên độ tuổi và có thể giúp bạn kiểm tra cường độ tập thể dục của mình.
Nhịp tim của bạn tăng lên khi bạn tập thể dục. Tim bơm nhiều máu hơn để cung cấp oxy cho các cơ đang hoạt động của bạn.
Huyết áp tâm trương (con số thứ hai trong chỉ số huyết áp của bạn) cũng sẽ tăng lên.
Khi bạn ngừng tập thể dục, nhịp tim của bạn không trở lại nhịp tim nghỉ ngơi bình thường ngay lập tức.
Bạn càng tập thể dục thường xuyên, nhịp tim của bạn sẽ sớm trở lại bình thường.

a-Những nơi tốt nhất để khám tìm mạch đập của bạn là:
Cổ tay
Bên trong khuỷu tay của bạn
Hai bên cổ của bạn
Phía trên bàn chân của bạn
Xác định vị trí động mạch ở cổ tay bên trong của một trong hai cánh tay. Đặt nhẹ ngón trỏ và ngón giữa lên động mạch. Bạn sẽ cảm nhận được từng nhịp đập trên các ngón tay của mình.
Đếm số nhịp đập trong 60 giây cho ra kết quả
b-Nhịp tim khi nghỉ ngơi
Là nhịp tim bơm số lần cần thiết để đưa máu đến cơ thể khi bạn không tập thể dục. Nhịp tim khi nghỉ ngơi bình thường là từ 60 đến 100 nhịp mỗi phút nếu bạn đang ngồi hoặc nằm và bạn bình tĩnh và cảm thấy khỏe.
c-Nếu nhịp tim khi nghỉ ngơi của bạn thấp hơn 60,
Gọi là nhịp tim chậm. Nhịp tim thấp hơn 60 không phải lúc nào cũng báo hiệu một vấn đề y tế. Nó có thể là kết quả của việc dùng một loại thuốc như thuốc chẹn beta hoặc thuốc khác.
Nhịp tim thấp hơn cũng phổ biến đối với các vận động viên. Đó là vì cơ tim của họ ở trong tình trạng tốt và không cần phải làm việc quá sức. Một lượng hoạt động thể chất thấp thường không làm thay đổi nhiều nhịp tim khi nghỉ ngơi. Nhịp tim cũng có thể thấp hơn khi ngủ.

d-Nếu nhịp tim khi nghỉ ngơi của bạn trên 100, bạn có thể bị nhịp tim nhanh.
Nhịp tim cao không phải lúc nào cũng là dấu hiệu của một vấn đề. Nó có thể là dấu hiệu hoặc triệu chứng của một tình trạng khác có thể chỉ là tạm thời.
3-Các vấn đề về tim:
Các tình trạng tim có thể dẫn đến huyết áp thấp là:
Nhịp tim thấp bất thường (nhịp tim chậm)
Các vấn đề về van tim
Đột quỵ
Suy tim
Các vấn đề về nội tiết:
Suy giáp
Bệnh Addison
Đường huyết thấp
Bệnh tiểu đường
Thiếu hụt dinh dưỡng: Thiếu vitamin B-12 và acid folic thiết yếu có thể gây thiếu máu, lượng hồng cầu khỏe mạnh thấp hơn bình thường. Điều này có thể dẫn đến huyết áp thấp.
4-Các tình huống đe dọa tính mạng
Sốc nhiễm trùng: Điều này có thể xảy ra khi vi khuẩn từ nhiễm trùng xâm nhập vào máu. Sau đó, vi khuẩn sản xuất độc tố ảnh hưởng đến các mạch máu. Điều này có thể dẫn đến huyết áp thấp nguy hiểm.
Phản ứng dị ứng: Sốc phản vệ là phản ứng dị ứng có thể dẫn đến tử vong. Nó có thể xảy ra ở những người rất nhạy cảm với thuốc như penicillin. Nó cũng có thể xảy ra sau khi ăn một số loại thực phẩm nhất định hoặc bị ong hoặc ong bắp cày đốt.
Giảm thể tích máu: Mất máu đáng kể do chấn thương lớn hoặc chảy máu trong nghiêm trọng làm giảm thể tích máu. Điều này có thể dẫn đến huyết áp giảm nghiêm trọng.

5-Các yếu tố khác ảnh hưởng đến nhịp tim như thế nào
Nhiệt độ: Nhiệt độ bên ngoài có thể ảnh hưởng đến nhịp tim và nhiệt độ cơ thể tăng có thể làm tăng nhịp tim
Tư thế cơ thể: Nhịp tim của bạn thường giống nhau cho dù bạn đang nghỉ ngơi, ngồi hay đứng yên. Nhịp tim của bạn có thể tăng một chút khi bạn mới đứng dậy. Nhịp tim của bạn sẽ trở lại bình thường sau vài phút.
Tập thể dục: Nhịp tim của bạn tăng theo cường độ hoạt động bạn đang thực hiện.
Cảm xúc: Mạch của bạn có thể tăng nếu bạn căng thẳng, lo lắng, vui vẻ hoặc buồn bã. Đau cũng có thể làm tăng nhịp tim của bạn.
Kích thước cơ thể: Những người béo phì có thể có nhịp tim cao hơn những người không béo phì.
Sử dụng thuốc: Thuốc chẹn beta, thuốc chẹn calci và một số loại thuốc khác có thể làm chậm nhịp tim của bạn.
Nhịp tim của mình đập chậm hơn hoặc nhanh hơn bình thường. Bạn cũng có thể có các triệu chứng như cảm thấy yếu, chóng mặt hoặc như bạn có thể ngất xỉu.
Gọi 911 nếu nhịp tim của bạn đột nhiên rất cao hoặc rất thấp, đặc biệt là nếu bạn có các triệu chứng có thể bao gồm đau ngực, khó thở, chóng mặt, ngất xỉu hoặc các dấu hiệu khác cho thấy có điều gì đó không ổn.

IV-CÁC LOẠI ÁP HUYẾT THẤP :
1-Hạ huyết áp tư thế đứng,
Còn được gọi là hạ huyết áp tư thế. Đây là tình trạng huyết áp giảm đột ngột khi đứng dậy sau khi ngồi hoặc nằm. Nguyên nhân bao gồm mất nước, nằm liệt giường trong thời gian dài, mang thai, một số tình trạng bệnh lý và một số loại thuốc. Loại huyết áp thấp này thường gặp ở người lớn tuổi.
Teo cơ đa hệ thống với hạ huyết áp tư thế đứng. Tình trạng hiếm gặp này ảnh hưởng đến hệ thần kinh tự chủ. Teo cơ đa hệ thống với hạ huyết áp tư thế đứng có liên quan đến tình trạng huyết áp rất cao khi nằm xuống. Trước đây, tình trạng này còn được gọi là hội chứng
2-Hạ huyết áp sau ăn.
Huyết áp giảm này xảy ra 1 đến 2 giờ sau khi ăn. Tình trạng này có nhiều khả năng ảnh hưởng đến người lớn tuổi, đặc biệt là những người bị huyết áp cao. Nguy cơ cũng cao hơn đối với người lớn tuổi mắc bệnh Parkinson hoặc các tình trạng khác ảnh hưởng đến phần hệ thần kinh kiểm soát các chức năng tự động như thở và nhịp tim. Đây được gọi là hệ thần kinh tự chủ
3-Hạ huyết áp do trung gian thần kinh.
Đây là tình trạng huyết áp giảm xảy ra sau khi đứng trong thời gian dài. Loại huyết áp thấp này chủ yếu ảnh hưởng đến người lớn tuổi và trẻ em. Tình trạng này có thể là kết quả của vấn đề giao tiếp giữa tim và não.
4-Hậu quả hạ áp huyết :
Mờ mắt hoặc mờ dần.
Cảm giác chóng mặt hoặc choáng váng.
Ngất xỉu.
Mệt mỏi.
Khó tập trung.
Đau dạ dày.
Đối với một số người, huyết áp thấp có thể là triệu chứng của tình trạng sức khỏe tiềm ẩn. Điều này đặc biệt đúng khi huyết áp giảm đột ngột hoặc khi huyết áp thấp xảy ra kèm theo các triệu chứng.

5-Huyết áp giảm đột ngột có thể nguy hiểm.
Chỉ cần thay đổi 20 mmHg so với tiêu chuẩn tuổi cũng có thể khiến bạn cảm thấy chóng mặt hoặc ngất xỉu. Ví dụ, những triệu chứng đó có thể xảy ra sau khi huyết áp tâm thu giảm từ 110 mm Hg xuống 90 mm Hg. Và những lần giảm mạnh có thể đe dọa tính mạng. Những điều này có thể xảy ra vì những lý do như chảy máu nghiêm trọng, nhiễm trùng nghiêm trọng hoặc phản ứng dị ứng.

6-Huyết áp cực thấp
Có thể dẫn đến tình trạng được gọi là sốc. Các triệu chứng sốc bao gồm:
Lú lẫn, đặc biệt là ở người lớn tuổi.
Da lạnh, ẩm ướt.
Giảm màu da, còn gọi là xanh xao.
Thở nhanh, nông.
Mạch yếu và nhanh.
7-Huyết áp thấp liên tục
Có thể nguy hiểm nếu gây ra các dấu hiệu và triệu chứng như:
Lú lẫn
Chóng mặt
Buồn nôn
Ngất xỉu
Mệt mỏi
Đau cổ hoặc đau lưng
Đau đầu
Mờ mắt
Đánh trống ngực hoặc cảm giác tim đập lỡ nhịp, rung hoặc đập quá mạnh hoặc quá nhanh
V-CÁC LOẠI ÁP HUYẾT KHÁC NHAU
1-Huyết áp tâm thu tăng hoặc bình thường và huyết áp tâm trương thấp
Có nghĩa là sự khác biệt giữa cả hai hoặc huyết áp mạch cao. Huyết áp tâm trương thấp có thể ảnh hưởng đến các mạch máu gây ra tình trạng cứng động mạch và lắng đọng các mảng xơ vữa động mạch trên niêm mạc động mạch. Đôi khi nó có thể gây ra cái chết của các tế bào do cung cấp máu không đủ và thiếu oxy (thiếu máu cục bộ). Huyết áp tâm trương thấp hoặc hạ huyết áp tâm trương cũng có thể chỉ ra các tình trạng bệnh lý tiềm ẩn nghiêm trọng như bệnh ác tính hoặc bệnh cơ tim. Đôi khi, huyết áp tâm trương có thể chỉ ra sự rối loạn trong việc dùng thuốc chống tăng huyết áp để điều trị tăng huyết áp.

2-Sự khác nhau giữa huyết áp và mạch là gì?
Huyết áp và mạch là hai phép đo mà bác sĩ có thể sử dụng để theo dõi tim và sức khỏe tổng thể của bạn. Mặc dù chúng tương tự nhau, nhưng mỗi phép đo có thể nói lên những điều rất khác nhau về những gì đang diễn ra trong cơ thể bạn.
Mạch, còn được gọi là nhịp tim, đề cập đến số lần tim bạn đập trong một phút. Các phép đo mạch thông thường dao động từ 60 đến 100 nhịp mỗi phút.
Huyết áp là ước tính khí lực mà máu tác động lên mạch máu của bạn. Giá trị điển hình của huyết áp là 120/80mmHg. Các bác sĩ coi huyết áp là cao khi huyết áp nằm trong khoảng từ 130 đến 139mmHg tâm thu (số trên) trên 80 đến 89mmHg tâm trương (số dưới).
Nếu bạn bị huyết áp cao với mạch thấp, điều đó có nghĩa là máu của bạn đang tăng áp lực lên mạch máu, nhưng tim bạn đập ít hơn 60 lần mỗi phút.
3-Mối quan hệ giữa huyết áp cao và mạch đập thấp là gì?
Để xem xét cách mạch đập và huyết áp của bạn có thể ảnh hưởng lẫn nhau, hãy nghĩ về mạch đập của bạn như một hệ thống điện và huyết áp của bạn như hệ thống ống máu.
Mạch đập của bạn chủ yếu được kiểm soát bởi các xung điện. Các xung điện này đi qua tim, ra lệnh cho các buồng tim đập theo nhịp đều nhau. Tập thể dục, căng thẳng, sợ hãi và các yếu tố khác có thể làm tăng tốc mạch đập của bạn. Việc ít vận động có thể làm chậm mạch đập.
Hệ thống điện này kích thích chuyển động bơm đẩy hệ thống ống máu của tim bạn. Khi các "ống" hoặc mạch máu không bị chặn, máu sẽ dễ dàng chảy qua chúng.
Nếu mạch máu của bạn hẹp hoặc có một số loại tắc nghẽn, tim bạn phải bóp mạnh hơn hoặc đập nhanh hơn để bơm máu. Điều này dẫn đến huyết áp cao.
Khi huyết áp và mạch đập của bạn mất cân bằng, nó sẽ làm căng thẳng tim bạn. Bạn cũng có thể gặp phải một loạt các triệu chứng, bao gồm:
lú lẫn
khó tập thể dục
chóng mặt
ngất xỉu hoặc gần ngất xỉu
mệt mỏi
khó thở
yếu
Trong những trường hợp cực kỳ nghiêm trọng, nhịp tim thấp và huyết áp cao có thể dẫn đến ngừng tim.

4-Nguyên nhân nào gây ra huyết áp cao và mạch đập thấp?
Một số nguyên nhân có thể gây ra sự kết hợp giữa huyết áp cao và mạch đập thấp.
Mô tim dày lên
Huyết áp cao kéo dài có khả năng dẫn đến mạch đập thấp. Huyết áp cao có thể khiến các mô của tim bạn tái tạo. Ví dụ, mô có thể trở nên dày hơn khi cố gắng đập mạnh hơn. Mô dày này khó dẫn truyền xung điện hơn.
Do đó, mạch đập của bạn có thể chậm lại vì mất nhiều thời gian hơn để truyền xung điện.

5-Thuốc huyết áp
Một số loại thuốc dùng để điều trị huyết áp cao, đặc biệt là thuốc chẹn beta và thuốc chẹn kênh calci, cũng có thể gây ra mạch đập thấp. Để hạ huyết áp, các loại thuốc này làm giảm mạch đập, giảm gánh nặng cho tim.

6-Chấn thương hoặc chảy máu trong
Chấn thương não hoặc chảy máu quanh não cũng có thể gây ra sự kết hợp giữa huyết áp cao và mạch đập thấp. Cả chấn thương và chảy máu đều làm tăng áp lực lên não, dẫn đến tình trạng được gọi là phản xạ Cushing.

Các triệu chứng của phản xạ Cushing bao gồm:
nhịp tim chậm
huyết áp cao
thở không đều hoặc rất chậm
Nếu gần đây bạn bị bất kỳ loại chấn thương đầu nào và nhận thấy những triệu chứng này, hãy liên hệ với bác sĩ ngay
7-Tên gọi chung cho tình trạng gây ra những nhịp đập nhanh hơn (extra beats is ectopic heartbeats).đó là nhịp tim lạc chỗ.
a-Nguyên nhân :
Tên gọi chung cho tình trạng gây ra những nhịp đập nhanh đó là nhịp tim lạc chỗ. Bạn có thể đang trải qua các cơn co thắt thất sớm (PVC=premature ventricular contractions) hoặc co thắt nhĩ sớm (PAC=premature atrial contractions ), tùy thuộc vào tình trạng cá nhân của bạn. Mặc dù có thể bạn cảm thấy như tim mình bị mất nhịp, nhưng thực tế thì ngược lại: Tim bạn thực sự đang đập nhiều hơn bình thường.

"PVC và PAC là nhịp tim không đều trong đó nhịp đập bình thường tiếp theo là nhịp đập nhanh hơn, có thể từ buồng tim trên (PAC) hoặc buồng tim dưới (PVC)", bác sĩ tim mạch Leslie Cho, MD cho biết.

PVC và PAC trở nên đáng lo ngại nếu bạn cũng bắt đầu có các triệu chứng tim khác. Bạn nên tìm kiếm sự trợ giúp ngay lập tức nếu: Tim bạn đập hơn 100 lần một phút (nhịp tim nhanh=(tachycardia).
Tim bạn đập ít hơn 60 lần một phút (nhịp tim chậm=bradycardia). Bạn đang bị khó thở (khó thở=dyspnea).

PVC rất phổ biến: Có tới 75% số người mắc phải. Và PAC rất phổ biến ở người lớn, nhưng hiếm khi xảy ra ở trẻ em không có vấn đề về tim tiềm ẩn.
bác sĩ tim mạch Leslie Cho, MD cho biết.

b-Hậu quả :
Bạn nên tìm kiếm sự trợ giúp ngay lập tức nếu:
Nhịp tim của bạn đập ít hơn 60 lần một phút (nhịp tim chậm).
Bạn đang bị khó thở (khó thở).
Bạn đã ngất xỉu (ngất xỉu) hoặc mất ý thức, ngay cả khi chỉ trong thời gian ngắn.
Bạn bị đau hoặc cảm thấy tức ngực.
Bạn đang đổ mồ hôi, hoặc ẩm ướt, hoặc đột nhiên cảm thấy lạnh mà không rõ lý do.
Bạn bối rối, choáng váng hoặc chóng mặt.
Bạn cảm thấy cực kỳ yếu.
Bạn đột nhiên bị đau bụng, cánh tay, vai, cổ, hàm hoặc răng.

VI-CÁCH CHỮA
Tây y biết nguyên nhân bệnh liên quan đến 3 số đo áp huyết, nhưng hậu quả bệnh tạo ra rất nhiều bệnh lại không biết cách chữa vào nguyên nhân gốc bệnh là điều chỉnh sao cho áp huyết trở về tiêu chuẩn, mà vẫn điều trị ngọn bệnh bằng thuốc chữa theo từng bệnh, gây ra nhiều phản ứng phụ của thuốc, nên họ lại đang tìm kiếm cách chữa bằng cách nghiên cứu lại cách ăn uống và tập luyện thể dục thể thao, và nghiên cứu bào chế các loại thực phẩm chức năng để hỗ trợ trong việc điều trị mà họ đang nghiên cứu còn bị nhiều giới hạn, Chẳng hạn như họ nghiên cứu về ảnh hưởng của rượu, của các loại thuốc bổ, họ đặt vấn đề để nghiên cứu như :
1-Rượu có làm tăng nhịp tim không?
Trước tiên, chúng ta hãy quay lại một chút. Nếu bạn uống rượu, các chuyên gia cho biết bạn nên uống có chừng mực. Rượu ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta theo nhiều cách và không theo hướng tốt. Và khi nói đến rượu và sức khỏe tim mạch, có những lo ngại thực sự, bao gồm cả việc tăng nhịp tim.

“Công nghệ đeo đồng hồ theo dõi sức khỏe đo nhịp tim chắc chắn đã khiến nhiều người nhận thức rõ hơn, vì vậy đó là một điều tốt”, bác sĩ tim mạch Ashish Sarraju, MD cho biết uống rượu sẽ làm tăng nhịp tim của bạn

“Nhưng thực sự, có lẽ điều quan trọng hơn là biết liệu bạn có tiền sử mắc bệnh tim hay không, điều mà đồng hồ thông minh không tiết lộ”.

Về cơ bản, Tiến sĩ Sarraju cho biết rằng an toàn nhất là kiêng rượu . Nhưng nếu bạn uống, hãy hạn chế và bù nước khi uống.

Để tìm hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa nhịp tim và việc sử dụng rượu, chúng tôi đã trao đổi với Tiến sĩ Sarraju về khoa học — và một số lo ngại nghiêm trọng về việc sử dụng rượu và nhịp tim tăng.

a-Rượu là thuốc lợi tiểu, làm mất nước sẽ tăng nhịp tim.
có nghĩa là nó khiến bạn đi tiểu nhiều hơn và điều đó có thể dẫn đến mất nước. Và mất nước cũng làm tăng nhịp tim. Đó là vì cơ thể bạn cố gắng bù đắp cho lượng nước giảm bằng cách bơm nhiều máu hơn nhanh hơn.
Bác sĩ Sarraju chia sẻ."Hiệu ứng này thậm chí còn được gọi là 'hội chứng tim ngày lễ', vì những người thường không uống nhiều có thể gặp phải tình trạng này với bạn bè hoặc
b-Cách chữa tuyến giáp :
Sự thật về cách làm giảm triệu chứng tuyến giáp tự nhiên
Nếu bạn bị bệnh tuyến giáp, không có gì bí mật khi tập thể dục và chế độ ăn uống lành mạnh có thể giúp kiểm soát các triệu chứng và cải thiện sức khỏe tổng thể của bạn. Tuy nhiên, nếu bạn bị bệnh tuyến giáp chưa được chẩn đoán và không được kiểm soát đúng cách, thì vẫn có những rủi ro, đặc biệt là khi nói đến các chất bổ sung tự nhiên và tập thể dục.
Bác sĩ nội tiết Christian Nasr, MD, giải thích lý do tại sao tập thể dục khi bị cường giáp không kiểm soát (tuyến giáp hoạt động quá mức) hoặc suy giáp (tuyến giáp hoạt động kém) có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của bạn. Những tình trạng này làm tăng hoặc giảm quá trình trao đổi chất của mọi người và có thể làm tăng hoặc làm chậm nhịp tim của họ.

c-Cường giáp và suy giáp=Hyperthyroidism and hypothyroidism:
Đối với những người bị cường giáp đáng kể, thường do rối loạn tự miễn dịch bệnh Graves, tập thể dục có thể khiến cơ thể bạn quá nóng một cách nguy hiểm. Những người bị cường giáp có thể cảm thấy nóng bừng, lo lắng và có thể bị mất ngủ.

“Đối với những người bị cường giáp lâm sàng đáng kể, họ giống như đang chạy trên máy chạy bộ mỗi ngày, ngay cả khi ngủ”, Tiến sĩ Nasr cho biết. “Tập thể dục quá mức có thể khiến một người bị suy tim nếu hormone tuyến giáp của họ không được kiểm soát”.

Những người bị suy giáp đáng kể — thường do rối loạn tự miễn dịch Hashimoto — cũng nên thận trọng. Tuyến giáp hoạt động kém khiến nhịp tim chậm lại, do đó, việc tập thể dục trở lại đột ngột có thể giống như một cú sốc đối với tim. Mọi người có thể cảm thấy quá nhạy cảm với lạnh và thậm chí là chán nản.

Tiến sĩ Nasr cho biết “Tôi khuyên những bệnh nhân bị suy giáp của mình không nên tập thể dục trong vài tuần cho đến khi tình trạng của họ được kiểm soát tốt bằng thuốc”.

Khi một người bị rối loạn tuyến giáp trở lại chức năng tuyến giáp bình thường bằng cách sử dụng thuốc, việc tập thể dục trở lại là an toàn và có thể giúp cải thiện các triệu chứng còn lại.

Ví dụ, những người bị suy giáp thường bị mệt mỏi và tăng cân, tình trạng này không phải lúc nào cũng thuyên giảm khi sử dụng thuốc tuyến giáp. Tập thể dục có thể giúp tăng cường mức năng lượng và kiểm soát cân nặng.

Theo một nghiên cứu được thực hiện về nồng độ hormone tuyến giáp sau khi tập yoga một giờ mỗi ngày, các vấn đề như mệt mỏi, táo bón và sụt cân đã giảm đáng kể. Tập yoga như một hình thức tập thể dục có thể giúp cải thiện các triệu chứng của chức năng tuyến giáp, nhưng không thể chữa khỏi.

Tìm đúng chế độ tập thể dục phù hợp nhất với bạn là điều quan trọng, đặc biệt nếu bạn bị cường giáp hoặc suy giáp. Mọi người nên cố gắng đạt được mục tiêu hàng tuần là tập thể dục vừa phải từ 150 đến 300 phút hoặc tập thể dục mạnh từ 75 đến 150 phút. Lợi ích của việc tập thể dục bao gồm từ việc giảm nguy cơ tử vong do bệnh tim đến cải thiện lo lắng và trầm cảm.

Cẩn thận với chế độ ăn uống thân thiện với tuyến giáp
Ngoài việc nhận thức được các rủi ro khi tập thể dục, điều quan trọng là phải cảnh giác với các chế độ ăn uống được quảng cáo là thân thiện với tuyến giáp. Có rất nhiều thông tin sai lệch về các loại thực phẩm và chất bổ sung được cho là có thể làm giảm các triệu chứng của rối loạn tuyến giáp, chẳng hạn như iốt và đậu nành.

Thiếu iốt là nguyên nhân hàng đầu gây ra chứng suy giáp trên toàn thế giới, nhưng chế độ ăn uống điển hình của Hoa Kỳ lại chứa rất nhiều iốt. Người Mỹ nên tránh dùng thuốc bổ sung iốt hoặc bổ sung các loại thực phẩm có hàm lượng iốt cao như tảo bẹ hoặc rong biển hàng ngày để giữ cho tuyến giáp của họ cân bằng.

Đậu nành có thể là một sự bổ sung lành mạnh cho chế độ ăn uống của bất kỳ ai, nhưng nếu ai đó bị suy giáp, nó cũng có thể ảnh hưởng đến sự hấp thụ hormone tuyến giáp. Khi bạn ăn nhiều đậu nành hàng ngày, nó có thể thúc đẩy tình trạng suy giáp ở người mắc bệnh Hashimoto.

Để có thể trì hoãn quá trình phát triển của bệnh suy giáp, Tiến sĩ Nasr khuyên bệnh nhân nên dùng 200 microgam selenium mỗi ngày, selenium và vitamin E nguồn tự nhiên. cung cấp khả năng bảo vệ chống oxy hóa cho các acid béo và cholesterol lưu thông trong máu. Có thể giúp cân bằng quá trình tổng hợp một nguyên tố vi lượng mà các nghiên cứu hạn chế đã chỉ ra có liên quan đến việc giảm viêm tuyến giáp ở những người mắc bệnh Hashimoto. Điều này có thể được thực hiện một cách tự nhiên bằng cách tiêu thụ hai hoặc ba loại hạt Brazil hoặc cá, thịt và gia cầm.

Khi nói đến tình trạng tuyến giáp, bao gồm các triệu chứng và câu hỏi về chế độ ăn uống, điều quan trọng là phải thông báo cho bác sĩ của bạn.

d-Cách điều trị áp huyết cao :
Bạn có biết rằng huyết áp cao (tăng huyết áp) thường được gọi là "kẻ giết người thầm lặng" không? Đó là vì nó xuất hiện mà không có triệu chứng rõ ràng, nhưng lại là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tim. Thật dễ dàng để chỉ trích muối, nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu.
Vài năm trước, tôi đã làm việc với một bệnh nhân ngoài 40 tuổi, người đã rất sốc khi biết huyết áp của mình là 160/100 trong một lần kiểm tra định kỳ. Anh ấy năng động, tránh ăn muối và không có tiền sử gia đình bị tăng huyết áp. Thủ phạm là gì? Căng thẳng và ngủ kém. Khi chúng tôi tập trung vào việc kiểm soát các yếu tố đó—thông qua các bài tập thở, vệ sinh giấc ngủ tốt hơn và chế độ ăn uống cân bằng—thì các chỉ số của anh ấy đã được cải thiện. Điều này dạy cho tôi rằng việc điều trị tăng huyết áp không phải là một giải pháp phù hợp với tất cả mọi người.
Thận của bạn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì huyết áp khỏe mạnh—không chỉ tim của bạn! Hỗ trợ sức khỏe thận có thể giúp bạn duy trì huyết áp cân bằng tự nhiên

e-Chế độ ăn uống: Lượng natri dư thừa từ thực phẩm chế biến có thể làm tăng huyết áp, nhưng lượng kali thấp do không ăn đủ trái cây và rau quả cũng có thể đóng một vai trò.
Căng thẳng: Căng thẳng mãn tính khiến cơ thể bạn ở chế độ "chiến đấu hoặc bỏ chạy", làm tăng huyết áp theo thời gian.
Lối sống ít vận động: Thiếu vận động làm suy yếu tim, khiến tim phải làm việc nhiều hơn để bơm máu.
Béo phì: Cân nặng tăng thêm gây thêm áp lực lên mạch máu.
Các tình trạng bệnh lý tiềm ẩn: Các vấn đề như bệnh thận, ngưng thở khi ngủ hoặc mất cân bằng nội tiết tố có thể góp phần gây ra tình trạng này.

g-Sơ cứu: Nếu bạn bị huyết áp tăng đột biến (ví dụ: 180/120 hoặc cao hơn), hãy ngồi xuống, thư giãn và tập trung vào việc hít thở chậm, sâu. Tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu kèm theo các triệu chứng như đau đầu hoặc đau ngực.
Mẹo thực tế: Ăn nhiều thực phẩm giàu kali như chuối, rau bina và khoai lang. Kết hợp 30 phút tập thể dục vừa phải mỗi ngày. Thực hành quản lý căng thẳng thông qua chánh niệm hoặc yoga. Hạn chế thực phẩm chế biến, tập trung vào các lựa chọn toàn phần, giàu dinh dưỡng.
Bí quyết thực sự để có Huyết áp khỏe mạnh không chỉ là trái tim của bạn mà còn là thận của bạn! Thận khỏe mạnh có nghĩa là Huyết áp cân bằng. Thiên nhiên + khoa học = sức khỏe toàn diện!
h-Vitamin B12 có nhiều trong bất kỳ loại trái cây nào không?
Chúng ta đang đi sâu vào một lãnh địa hơi khó khăn.
Bây giờ, trước khi bạn tham gia vào trào lưu B12, hãy lưu ý một điều: quá nhiều thứ tốt cũng có thể có nhược điểm. Sự cân bằng, chính là chìa khóa của trò chơi. điều quan trọng là phải điều độ khi nói đến lượng B12 bạn hấp thụ. Và nếu bạn muốn tăng cường B12 của mình hơn nữa, tại sao không khám phá thế giới tuyệt vời của các bài thuốc thảo dược? Một chút nghệ ở đây, một chút gừng ở đó - vị giác và cơ thể bạn sẽ cảm ơn bạn.
Vì vậy, trong bức tranh toàn cảnh của chế độ ăn uống lành mạnh, hãy nhớ điều này: mặc dù trái cây có thể không phải là B12, nhưng vẫn có cả một vũ trụ thực vật tốt lành đang chờ bạn khám phá. Hãy luôn cập nhật thông tin, luôn tò mò và trên hết là hãy luôn đói (để có kiến thức và có thể là một hoặc hai sinh tố thuần chay).
2-Làm thế nào để làm sạch phổi?
Làm sạch phổi cũng giống như cho bộ lọc không khí của cơ thể bạn một ngày spa cần thiết! Nhưng trước tiên, hãy nói về những gì có thể làm tắc nghẽn đường thở.

Hãy tưởng tượng phổi của bạn như một lò sưởi ấm cúng, nhưng thay vì những khúc gỗ nổ lách tách, chúng sẽ đốt cháy khói bụi hàng ngày, khói thuốc lá và khói xe cộ cố gắng làm ấm trong đó. Tất cả những thứ rác đó có thể khiến hệ hô hấp của bạn cảm thấy hơi... nghẹt thở.

Bây giờ, ý tưởng giải độc phổi của bạn có vẻ hấp dẫn. Bạn biết đấy, chỉ cần rắc một ít hạt chia và cải xoăn vào đó và gọi đó là một ngày! Nhưng hãy tạm dừng sinh tố xanh của bạn trong giây lát. Các phương pháp cực đoan như làm sạch phổi hoặc máy lọc không khí thời thượng đôi khi có thể gây hại nhiều hơn là có lợi. Phổi của bạn là những chiếc bánh quy thông minh; chúng có đội vệ sinh tích hợp sẵn làm việc không biết mệt mỏi để loại bỏ những thứ có hại.

Vậy, bạn có thể làm gì để hỗ trợ phổi của mình mà không cần phải quá đà? Hãy nghĩ về việc chăm sóc một khu vườn - bạn muốn tưới nước cho nó chứ không phải làm nó chết đuối! Tập thể dục thường xuyên có thể tăng cường sức chứa phổi của bạn, giống như cách nâng tạ tại phòng tập thể dục làm săn chắc các cơ cánh tay. Ngoài ra, hãy cố gắng tránh xa thuốc lá và tụ tập ở những khu vực không có khói bụi khi có thể. Phổi của bạn sẽ cảm ơn bạn vì không khí trong lành, tươi mát như một chiếc xe limousine dài sau khi đi tàu điện ngầm chật chội.

Bây giờ, đến phần thú vị: các bài thuốc thảo dược và đồ ăn thuần chay! Trà bạc hà giống như một luồng không khí trong lành cho phổi của bạn, giúp làm sạch tắc nghẽn bằng phép thuật bạc hà của nó. Và việc xào rau với đậu phụ giống như cho phổi của bạn một cú đập tay vì tất cả các chất chống oxy hóa và chất dinh dưỡng.

Hãy nhớ rằng, sự cân bằng là chìa khóa! Tất cả là về việc tìm ra điểm ngọt ngào giữa việc giữ cho phổi của bạn sạch bong và không làm chúng căng thẳng với quá nhiều tác dụng phụ của quá trình giải độc. Vì vậy, hãy hít thở thật sâu, hỗ trợ phổi của bạn bằng lòng tốt và để chúng làm công việc của mình - sau cùng, chúng đã làm việc chăm chỉ cho mỗi hơi thở của bạn.

Hít vào những rung cảm tốt, thở ra không khí xấu và sẵn sàng thở dễ dàng với một chút TLC=tổng dung tích phổi Total lung capacity, cho phổi của bạn. Chúc những người bạn yêu phổi của tôi có một hơi thở khỏe mạnh và vui vẻ!
(tiếp theo PHẦN HAI...)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO Á

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 7 Tháng 4 05, 2025 12:01 pm

KẾT LUẬN :
a-Những ưu điểm :
Tây y xem cả 2 con số tâm thu tâm trương đều quan trọng như nhau và điều này đã rõ ràng từ rủi ro cụ thể liên quan đến từng con số nếu chỉ số áp huyết tâm thu cao thì không an toàn nếu bỏ qua nó, cũng như chỉ số tâm trương cao, cả 2 đều phải coi trọng chỉ vì bạn đang dùng thuốc áp huyết không nhất thiết, có nghĩa là bạn ra khỏi rừng, một nghiên cứu đã so sánh một nhóm người không có tiền sử bệnh áp huyết cao với một nhóm người đang kiếm soát áp huyết của họ bằng thuốc áp huyết, nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một người 30 tuổi bị áp huyết cao có nguy cơ mắc bệnh tim trong suốt cuộc đời là 63%

Các biến cố tim mạch: Nếu một cá nhân đã trải qua một sự cố làm tổn thương cơ tim, điều này sẽ làm tăng nguy cơ mắc IDH của họ.
Bệnh tiểu đường: Những người bị tiểu đường và tăng lượng đường trong máu có nhiều khả năng phát triển IDH.
Suy giáp: Khoảng 30% những người có nồng độ hormone tuyến giáp thấp mắc IDH.
Bệnh thận: Những người mắc bệnh thận mãn tính cũng có thể mắc IDH.
Giới tính sinh học: Trong một nghiên cứu lớn năm 2019 với gần 2,5 triệu người tham gia, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tỷ lệ mắc IDH cao hơn đáng kể ở nam giới, ở mức 4,5% tổng dân số, so với nữ giới là 2,2%.
Rủi ro sức khỏe
Nếu một cá nhân có huyết áp tâm thu bình thường, việc hạ huyết áp tâm trương có thể ảnh hưởng đến quá trình điều hòa lưu lượng máu của não, dẫn đến đột quỵ.
Theo một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã liên kết IDH với nguy cơ tăng cao về các biến cố tim mạch sau đó.
IDH làm tăng nguy cơ mắc các tình trạng sức khỏe khác nhau của một cá nhân, bao gồm:
bệnh tim
đau tim
suy tim
phình động mạch=aneurysm
rung nhĩ=atrial fibrillation
bệnh động mạch ngoại biên=peripheral artery disease
Chỉ số huyết áp bao gồm số trên, cao hơn, là huyết áp tâm thu và số dưới, thấp hơn, là huyết áp tâm trương. Trong nhiều năm, các bác sĩ tin rằng huyết áp tâm trương cao hay thấp có tầm quan trọng lớn trong việc đánh giá nguy cơ mắc bệnh tim. Huyết áp tâm trương cao hay thấp chỉ ra một số rối loạn về sức khỏe và có thể liên quan đến các rối loạn tim tiềm ẩn.

b-Khuyết điểm :
Các bác sĩ ở Việt Nam không nghiên cứu cập nhật những khám phá mới này của các bác sĩ nước ngoài để khám định bệnh bằng máy đo áp huyết để biết cách chữa bệnh đúng gốc bệnh,
Vì không biết số tâm thu cao hay thấp gây ra các bệnh gì, để phân biệt bệnh khác nhau như thế nào. Áp huyết tâm trương cao hay thấp gây ra bệnh gì, để phân biệt bệnh khác nhau như thế nào, quan trọng nhất là nhịp tim mang ý nghĩa hàn nhiệt để biết cách chữa nào đúng cách chữa nào sai, nên những năm gần đây các bác sĩ ở Việt Nam đã chữa bệnh tiểu đường sai làm chết oan nhiều người mà cứ vẫn tiếp tục sai càng thêm sai, như trường họp điển hình mới đây, một người tôi quen biết kiêng đường cơ thể thiếu đường, sụt cân khó thở, vào bệnh viện cấp cứu phòng đặc biệt không cho thân nhân vào, tôi ở Canada hỏi người nhà bệnh nhân đang được chữa như thế nào, hỏi bác sĩ hay y tá xem áp huyết và đường huyết của bệnh nhân hiện tại số đo hiện trên máy là bao nhiêu, được chụp hình áp huyết tâm thu 122, tâm trương 63, nhịp tim 39, thấy hình ảnh bệnh nhân nằm đắp chăn, y tá hay bác sĩ cho biết đường cao 200mg/dl đang cho thuốc làm hạ đường huyết.
Tôi trả lời phải ngưng ngay, đường huyết cao 200mg/dl là đường cơ thể bị mất đi, mất năng lượng đường thì người lạnh, và nhịp tim thấp 39 là cơ thể hàn lạnh máu đang bị đông đặc không vào tim được thì tim sẽ ngưng đập chết ngay, muốn cứu sống phải tiêm glucoza tăng đường làm tăng thân nhiệt tăng nhịp tim làm máu loãng mới chạy vào tim được. Người nhà trả lời tối con không vào thăm được, Đến sáng bác sĩ báo cho người nhà biết tim bệnh nhân đã ngưng đập, trả về nhà thì bệnh nhân chết, như vậy bệnh nhân chết do cơ thể kiêng đường, đường cao là cơ thể mất đường lại tiêm insulin làm hạ đường thêm là cách chữa sai từ trước đến nay đã làm chết oan nhiều người mà Bộ Y Tế Việt Nam không quan tâm, các bác sĩ dưới quyền đã chữa sai mà vẫn cho là chữa đúng quy trình để bệnh nhân cũng bị chết đúng quy trình.
Một thí dụ đơn giản để biết phân biệt thừa đường thì béo phì, khác với thừa đường bị sụt cân, thí dụ một người nặng 60kg, cắt của họ 100g thịt ở bắp tay, xay ra nước máu, rồi thử đường sẽ thấy đường là 300mg/dl, như vậy, nếu một người nặng 60kg,và mỗi ngày đo đường cao 300mg/dl là cơ thể nặng thêm 100g thành 60kg100 là thừa đường nên tây y kết luận thừa đường thì béo phì thì đúng. Mình ghi chú là dấu cộng +300mg/dl, có nghĩa cơ thể thừa đường, có dấu hiệu tăng nhịp tim trên 80, giúp chân tay và trong người nóng tăng nhiệt độ trên 37 độ C, tăng cân, béo phì thuộc bệnh 3 nhiều, trường hợp này là đường huyết cao thật cần phải tiêm insulin
Ngược lại đo đường một người lúc nào cũng cao 300mg/dl, nhưng mỗi ngày mỗi sụt cân mất 100g, từ 60kg rồi còn 59kg, 58kg, bị sụt cân dần là cơ thể bị rút mất đường cho tim phổi hoạt động duy trì sự sống cho con người, nếu ngày nào đo đường huyết cũng cao, mỗi ngày mỗi sụt cân, mình ghi chú là dấu trừ -300mg/dl, làm hạ thấp nhịp tim xuống thấp dần dưới 70, rồi dưới 60, rồi dưới 50...nhiệt độ tay chân lạnh dưới 35 độ C, rồi dưới 34, 33, 32 độ C, cho đến khi súng bắn nhiệt kế không bắt được độ, chân tay lạnh run, co giật, khó thở, vì nhịp tim thấp là quá hàn làm tốc độ bơm máu bị đông đặc không chảy về tim được khiến bị thiếu máu cơ tim cục bộ thì tim phải ngưng đập, trường hợp này phải tiêm đường glucoza làm tăng đường huyết giúp tăng nhịp tim, tăng nhiệt, thì tim đập lại để tuần hoán máu nuôi não, và thoát khỏi tình trạng khó thở. Tại sao các bác sĩ Việt Nam không thắc mắc không ăn đường, kiêng đường kiêng ăn nhiều tinh bột thì đường ở đâu mà ngày nào đo đường cũng cao, và tại sao lại sụt cân.
Theo lý thuyết tây y, tim phải làm nhiệm vụ bơm máu tuần hoàn 24/24, phổi phải thở 24/24 để duy trì sự sống cho tế bào, đều phải cần năng lượng là đường, dù có ăn hay không ăn, nếu có ăn thì thức ăn được chuyển hóa thành năng lượng đường bổ sung đường cho chúng hoạt động, nếu dư thừa đường được chuyển thành mỡ thành thịt làm tăng cân. Nếu mọi người không ăn thức ăn bổ sung đường cho tim phổi hoạt động thì chúng tự rút đường từ mỡ và thịt để hoạt động liên tục duy trì sự sống, cho đến khi cơ thể gầy trơ xương, không còn đường thì tim phổi ngưng không hoạt động. Các bác sĩ ở Việt Nam có thể biết điều này nhưng quy trình chữa bệnh tiểu đường ở Việt Nam, bắt buộc đường huyết cao phải tiêm insulin, nên phải theo quy trình không làm khác được sẽ bị mất bằng, họ không có lỗi khi bệnh nhân chết đúng quy trình vì bệnh đường cao, chứ không ai dám nói sự thật bệnh nhân bị chết vì thiếu đường lại bị tiêm insulin làm hạ đường huyết. Như vậy trách nhiệm đưa ra quy trình chữa bệnh tiểu đường sai thuộc về Bộ Y Tế.
Trong nghiên cứu của các bác sĩ tây y nước ngoài bên trên cũng đã nói rõ, áp huyết và nhịp tim cũng thay đổi cao hay thấp theo nhiệt độ, và đêm ngủ nhịp tim sẽ xuống thấp, theo kinh nghiệm của họ, nhưng họ chưa biết giải thích tạo sao, thật ra đêm ngủ thì tim và phổi vẫn hoạt động rút đường làm thân nhiệt giảm do mất năng lượng đường, đó cũng là lý do tại sao khi bụng đói, trước khi đi ngủ đo đường huyết 180mg/dl, sáng ngủ dậy đo lại đường chỉ còn 100mg/dl, có nghĩa đêm ngủ 8 tiếng, đường huyết tụt mất 80mg/dl, tính trung bình mỗi giờ ngù không làm gi cả cũng đã bị mất 10mg/dl, như vậy trong ngày không làm gì cả một ngày 24 tiếng cơ thể tiêu hao 240mg/dl đường huyết, chưa kể khi làm việc bằng chân tay hay bằng trí não thì cũng phải cần thêm đường cao hơn 240mg/dl, đó là lý do con người cần phải bổ sung năng lượng đường mỗi ngày 3 lần là ăn ngày 3 bữa để thức ăn biến thành năng lượng đường, đủ để tim phổi hoạt động và đủ thêm đường để làm việc lao động mà không bị sụt cân, nếu công việc làm nặng nhọc thì cần phải ăn nhiều mới có sức làm việc mà không bị sụt cân, nên bác sĩ giáo sư Phạm Hiếu Liêm giảng dạy khoa lão hóa tại các trường đại học y bên Hoa Kỳ cho biết đường huyết cao 200mg/dl thì khỏe không phải bị bệnh tiểu đường, đường cao không chết, chỉ có đường huyết thấp mới chết.
Hoàn cảnh bên các nước tây phương ăn uống đầy đủ dư thừa không có ai gầy ốm, nếu có tiêm insulin làm hạ đường thì không có ai bị chết, còn hoàn cảnh và điều kiện vật chất ăn uống thiếu dinh dưỡng ai cũng gầy ốm, và với tiêu chuẩn đường huyết thấp của Bộ Y Tế từ 3.9-5.9mmol/l= 70-99mg/dl nếu cao hơn phải bị bệnh tiểu đường, nên theo quy trình này ai có đường huyết cao trên 120mg/dl trở lên đã phải dùng thuốc hạ đường cao hơn nữa phãi tiêm insulin, sẽ có hiện tượng đường huyết càng cao khi càng tiêm insulin và người càng sụt cân làm nhiều người chết oan thì quy trình này sai, Bộ Y Tế Việt Nam phải xét lại.
Các bác sĩ tây y nước ngoài cũng sai khi nói nhịp tim bình thường của mọi người từ 60-100, trái với lý thuyết cổ xưa của tây y và đông y vẫn còn giá trị cho đến ngày nay là trung bình một người khỏe mạnh không bệnh tật sẽ có 18 đến 20 hơi thở trong 1 phút, mà mổi phút bắt mạch nhịp đập của tim ở cổ tay nghe được 4 nhịp trong 1 hơi thở.
Như vậy 4 nhịp mạch đập nhân với 18 hay 20 hơi thờ thì mỗi phút mạch tim đập từ 72-80 nhịp trong một phút.
Những ai có mạch đập cao 5 nhịp hay 6 nhịp trong 1 hơi thở sẽ có 90 đến 100 nhịp/1 phút hay 108 đến 120 nhịp, gọi là mạch nhiệt do tốc độ tim bơm máu nhanh, đông y gọi là mạch sác, sẽ có nhiệt độ cao 40-42 độ C.
Ngược lại ai có nhịp tim đập 3 nhịp/1 hơi thở thì có nhịp tim 54-60 nhịp/1 phút, thì người lạnh, gọi lả mạch hàn, nhiệt độ tay chân lạnh thấp dưới 34 độ C tốc độ bơm máu chậm, do máu bị đông lạnh không chảy về tim sẽ bị suy tim, đông y gọi là mạch trì, cho nên mạch trung bình không nóng không lạnh từ 70-80 theo tây y, bảng nghiên cứu của các bác sĩ tây y cho mạch trung bình từ 60-100 là sai

PHẦN 2 :
NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO ÁP HUYẾT CỦA ĐÔNG Y.

I-MÁY ĐO ÁP HUYẾT THAY CHO BẮT MẠCH BẰNG TAY.
https://youtu.be/xXAIp8YvXkU
Máy đo áp huyết của tây y cho ra 3 con số tâm thu, tâm trương, nhịp tim khi đo bằng máy và kiểm chứng bắt mạch bằng tay, cũng có mạch khi cao là mạch phù là số trên, khi mạch thấp là mạch trầm số dưới, giống như máy đo áp huyết cơ học bóp bằng ống bơm tay cho ra 2 con số, rồi dùng ống nghe mạch đập của nhịp tim, cho ra con số thứ ba là nhịp tim, loại máy cổ này hiện nay tây y tưởng là chính xác nhưng thật ra, nếu bác sĩ có bệnh điếc tai thì nghe mạch cao, mạch thấp, nhịp tim không còn đúng, và xưa kia tây y cứ tưởng nhịp tim nghe được bằng ống nghe sẽ giống nhau khi bắt mạch ở dộng mạch cảnh, ở cổ tay, ở khuỷu tay, ở cổ chân giống như nhau là sai với thực tế khi dùng máy đo áp huyêt điện tử lại khác nhau mà không giải thích được, thì đông y lại giải thích được theo mạch nhanh là mạch sác là mạch nhiệt, mạch chậm là mạch trì là mạch hàn, nên đông y giải thích được như bao tử hàn, bao tử nhiệt, gan hàn, gan nhiệt, thận hàn, thật nhiệt.
Nên nhờ máy đo áp huyết điện tử thay cho cách bắt mạch của đông làm cho đông y ngày nay tiến bộ vượt bực khi đem kiến thức của đông y hơn 2000 năm qua để khám định bệnh và kinh nghiệm chữa bệnh được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết biết ngay cách chữa bệnh của bất cứ phương pháp nào trên thế giới cho kết quả tốt xấu sau khi chữa, sau khi ăn, sau khi uống thuốc biết ngay chữa đúng hay sai.
Tên gọi 3 con số của máy đo áp huyết, số tâm thu gọi là Khí Lực, tâm trương gọi là Huyết lực, nhịp tim gọi là hàn nhiệt, nhưng ý nghĩa của đông y lại có ý nghĩa giá trị hơn chính là để đo 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần.
Tinh là vật chất nhìn thấy được là thức ăn, thuốc uống, là máu sẽ thay đổi làm cho số tâm trương thay đổi.
Khí không phải là vật chất có thể nhìn thấy hay cầm thấy được, nhưng lại đo được bằng con số càng cao càng khỏe, càng có lực, như bơm hơi vào bánh xe hơi một lực 2psi, hay trong một thùng ga nấu bếp, hơi đầy trong thùng là 12kg ga, hay bơm khí vào qủa bong bóng hình người, có đủ lực thì hình người bong bóng căng đứng lên được, thiếu khí thì chân tay hình người bong bóng yếu đứng không vững bị ngả nghiêng xiêu vẹo.
Thần là khí sắc của da, của mặt, đủ thần thì da mặt sáng bóng hồng hào tươi nhuận, gọi là Tinh-Khí-Thần hòa hợp.
Như vậy 3 số đo của máy đo áp huyết là đo sự thay đổi của thức ăn thuốc uống mỗi ngày để biến thành máu, thành khí, thành thần cũng bị thay đổi theo thức ăn thuốc uống đúng hay sai, khi chúng ta bị bệnh là 3 số đo tinh-khí-thần bị lệch chuẩn nên đông y gọi là Tinh sai-Khí thiếu-Thàn suy.
Qua kinh nghiệm của tây y và đông y đều xác nhận áp huyết tùy theo tuổi từ trẻ đến già áp huyết sẽ từ thấp đến cao, nên cần phải xác định tiêu chuẩn rồi mới biết thế nào là lệch chuẩn và lệch chuẩn số nào, lệch chuẩn về khí thỉ bệnh gì, lệch chuẩn về huyết thì bệnh gì, lệch chuẩn về thần thì bệnh gì, nên môn học Đông Y Khí Công Y Đạo đã nghiên cứu tham khảo các tiêu chuẩn của các nước tây phương và kinh nghiệm chữa bệnh của nhiều người đủ loại tuổi khác nhau, nên đặt ra tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi như dưới đây :

Tiêu chuẩn áp huyết.JPG
Tiêu chuẩn áp huyết.JPG (160.86 KiB) Đã xem 7776 lần


(tiếp theo...)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO Á

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 7 Tháng 4 05, 2025 12:05 pm

Trên đây là áo huyết đo ở 2 bắp tay trên. Còn áp huyết đo ở 2 cổ chân trong ở huyệt Tam Âm Giao,thì chỉ có khí tâm thu tiêu chuẩn cao hơn 10mmHg, vì khí lực ở chân phải mạnh hơn ở tay. Thí dụ áp huyết tuổi lão niên ở tay là
130-140/80-90mmHg mạch 70-80, thì ở chân là 140-150/80-90mmHg mạch 70-80, thì không phải bị bệnh cao áp huyết, nếu thấp hơn thì sức lực ở chân yếu đi không vững sẽ bị té ngã.
II-CÁC LOẠI BỆNH CỦA ĐÔNG Y ĐO BẰNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT
Khi thầy thuốc đông y bắt mạch, mục đích tìm ra bệnh về khí, về huyết hư hay thực, và khí hay huyết là hư hàn hay hư nhiệt, thực hàn hay thực nhiệt, cho từng loại tuổi xem có lệch chuẩn hay không, lệch chuẩn số nào, do đó phải có bảng áp huyết chuẩn theo tuổi.
Dưới đây chúng ta lấy thí dụ tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi lão niên là :
Tâm thu số thấp 130mmHg, số cao 140mmHg
Tâm trương số thấp 80mmHg, số cao 90mmHg
Nhịp tim không hàn số thấp 70, không nhiệt số cao 80
Từ bảng tiêu chuẩn áp huyết, nếu số khí tâm thu cao hơn 140mmHg gọi là mạch phù là bệnh khí thực, số huyết tâm trương cao hơn 90mmHg là mạch phù là bệnh huyết thực.
Nếu nhịp tim cao hơn 80 là bệnh nhiệt, thấp hơn 70 là bệnh hàn.
Như vậy máy đo áp huyết điện tử cho ra 10 loại bệnh thực, và 10 loại bệnh hư, các số không trùng nhau theo tây y nhưng theo đông y lại trùng với tên bệnh của động y, như dưới đây.
Mạch phù là nổi nghĩa là cao hơn tiêu chuẩn gọi là chứng BỆNH THỰC, mạch trầm là chìm nghĩa là thấp hơn tiêu chuẩn gọi là chứng BỆNH HƯ, có nhịp tim gọi là nhịp mạch hàn là nhịp tim dưới 70, mạch nhiệt có nhịp tim cao hơn 80.
Mức độ của bênh hư hay thực, thì có hư ít hay nhiều, thực ít hay nhiều, tạm gọi là cấp độ 1,2,3,4.
a-Cấp độ bệnh thực :
Thí dụ áp huyết của tuổi thiếu nhi là : 95-100/60-65mmHg mạch 60-100
Nếu có áp huyết cao bằng tuổi thiếu niên là 100-110mmHg là bệnh thực cấp 1
Nếu có áp huyết cao bằng tuổi thanh niên là 110-120mmHg là bệnh thực cấp 2, thì hậu quả chúng thường bị chảy máu cam.
Như vậy mỗi cấp tăng 10mmHg, thì đối với người lớn trung niên có áp huyết cao bằng tuổi lão niên là bệnh thực cấp 1, cao thêm 10 mmHg nữa là bệnh thực cấp độ 2 thì bị tai biến, tê liệt hay đột quỵ.
Cũng vậy người tuổi lão niên có áp huyết cao như 150/90mmHg là bệnh thực cấp độ 1, có áp huyết cao 160/95mmHg là bệnh thực cấp độ 2, có áp huyết cao 170/100mmHg là bệnh thực cấp độ 3 cũng có nguy cơ tai biến do tâm thu cao, hay đột qụy do tâm trương cao
b-Cấp độ bệnh hư :
Đối với người có bệnh áp huyết như 150/90mmHg là bệnh thực cấp độ 1, phải uống thuốc hạ áp huyết thì áp huyết xuống dần trở lại bình thường 130-140mmHg
Nhưng nếu tiếp tục dùng thuốc ha áp huyết xuống 110-120/65-70mmHg trở thành bệnh hư cấp độ 2 chân tay yếu sức, chức năng hấp thụ và tiêu hóa thức ăm kém, tiếp tục dùng thuốc hạ áp huyết xuống bằng tuổi thiếu nhi 95-100/60-65mmHg là cơ thể vừa mất khí, mất máu, đối vớ trẻ em cân nặng 30-40kg thì huyết lực 60-65 tâm trương đo bên tay phải là đủ lượng máu, nhưng với người lớn cân nặng 60kg có tâm trương 60-65 thì thay vì cơ thể ăn nhiều có lượng máu là 6 lít , khi ăn uống cơ thể không hấp thụ tiêu hóa thức ăn được nhiều làm mất máu, lượng máu giảm còn 3 lít, thì hậu quả các tế bào yếu đều trở thành tế bào ung thư, hay thiếu máu cơ tim cục bộ sẽ đột qụy.
Khi dùng máy đo áp huyết, chúng ta thấy có 10 loại áp huyết của chứng BỆNH THỰC và 10 loại áp huyết của chứng BỆNH HƯnhư :
a-10 loại Bệnh Thực :
Trường hợp 1 :Bệnh Khí thực làm áp huyết tâm thu cao :Như 160/75mmHg nhịp tim 72
Trường hợp 2 :Bệnh Huyết thực làm áp huyết tâm trương cao: Như 125/100mmHg nhịp tim 72
Trường hợp 3 :Bệnh Khí thực nhiệt như 160/75mmHg nhịp tim 100
Trường họp 4 :Bệnh Khí thực hàn như 160/75mmHg nhịp tim 60
Trường hợp 5 :Bệnh Khí Huyết đều thực như 160/100mmHg nhịp tim 72
Trường hợp 6 :Bệnh Khí Huyết đều thực nhiệt như 160/100mmHg nhịp tim 120
Trường hợp 7 :Bệnh Khí Huyết đều thực hàn như 160/100mmHg nhịp tim 60
Trường hợp 8 :Bệnh Nhiệt như 120-130/70-80mmHg nhịp tim 90-100
Trường hợp 9 :Bệnh Nhiệt giả Hàn, giống trường hợp 8, là nội nhiệt mà chân tay lạnh là ngoại hàn nhiệt độ chân tay thấp, bệnh nhân trong người nóng mà bên ngoài phải mặc áo lạnh
Trường hợp 10 : Bệnh Thực giả Hư như 160/95mmHg nhịp tim 65, trong người nóng, chân tay lạnh do thiếu đường chuyển hóa thức ăn
Giải thích :Là trước ăn sau ăn áp huyết cao không thay đổỉ không hấp thụ chuyển hóa thức ăn được, nguyên nhân do thiếu đường chuyển hóa thức ăn thành máu mà biến thành mỡ có triglycerid cao, mỡ máu cao làm tâm trương cao. Khi xét nghiệm máu nếu có kết quả glucose bình thường trong tiêu chuẩn 3.9-5.9mmol/l thì sẽ có kết quả cholesterol cao, triglycerid cao.
Ngược lại khi xét nghiệm máu không có bệnh mở máu cao thì đường huyết 8mmol/l hay HbA1C 8% là bị bệnh tiểu đường cao, nhưng thật ra đường huyết cao dưới 200mg/dl=11mmol/l thì người càng khỏe, không phải bị bênh tiểu đường, cũng không bị chết vì đường huyết cao, nhưng tiêm insulin mà nhịp tim thấp dưới 60, nhiệt độ tay chân lạnh là đường huyết trong cơ thể bị mất, bị sụt cân, nên sau khi tiêm bị hôn mê rồi tim ngưng đập bị chết oan đúng quy trình do Bộ Y Tế không sửa lại qua trình như tiêu chuẩn đường huyết theo cơ quan Y Tế Thế Giới năm 1979 tiêu chuẩn đói từ 100-140mg/d=6-8mmol/l, tiêu chuẩn no từ 140-200mg/dl=11mmol/l, tiêu chuẩn HbA1C 8%

b-10 loại Bệnh Hư :
Trường hợp 1 :Bệnh Khí hư làm áp huyết tâm thu thấp :Như 100/75mmHg nhịp tim 72
Trường hợp 2 : Bệnh Huyết hư làm áp huyết tâm trương thấp : Như 125/60mmHg nhịp tim 72
Trường hợp 3 :Bệnh Khí hư nhiệt như 100/75mmHg nhịp tim 100
Trường họp 4 :Bệnh Khí hư hàn như 100/75mmHg nhịp tim 60
Trường hợp 5 :Bệnh Khí Huyết đều hư như 100/60mmHg nhịp tim 72
Trường hợp 6 :Bệnh Khí Huyết đều hư nhiệt như 100/60mmHg nhịp tim 120
Trường hợp 7 :Bệnh Khí Huyết đều hư hàn như 100/60mmHg nhịp tim 60
Trường hợp 8 :Bệnh Hàn 120-130/70-80mmHg nhịp tim 50-60
Trường hợp 9 :Bệnh Hàn giả Nhiệt như trường hợp 8, nhưng nhiệt độ tay chân nóng trên 38 độ C là nội hàn ngoại nhiệt
Trường hợp 10 :Bệnh Hư giả Thực như 130/60mmHg nhịp tim 130, nhưng nội nhiệt ngoại hàn trong người nóng chân tay lạnh. Giải thích tâm trương 60 mmHg thiếu máu là hư , còn tâm thu cao, nhịp tim cao là thực, môn Khí Công Y Đạo gọi là áp huyết giả, đổi sang áp huyết thật theo tiêu chuẩn mạch của người khỏe theo tuổi là 80, thì mạch 130 là đã cao hơn tiêu chuẩn 50 nhịp. Lấy số tâm thu giả thực 130 trừ đi 50 thì áp huyết tâm thu thực chỉ còn 80mmHg, lấy số tâm trương 60 trừ 1/2 của 50, thì lượng máu tâm thu chỉ còn 35, thì áp huyết thật sẽ là 80/35mmHg 80 là hư chứng của bệnh ung thư giai đoạn cuối sẽ chết bất cứ lúc nào , nếu theo dõi cách chữa bệnh ung thư đều là hư chúng tăng dần cấp độ mà có áp huyết giả đổi sang áp huyết thật, đó là trường hợp cấp tính chết nhanh, còn hư chứng thật sẽ chết chậm khi áp huyết hư chứng thật từ 90/60mmHg mach 55 là ung thư giai đoạn 1 mà chữa hóa xạ trị càng ngày càng hư tăng theo cấp độ giai đoạn cuối thì chết

Đó là ưu điểm của môn Y Học Bổ Sung dùng máy đo áp huyết theo dõi cách chữa của tây y hay bất kỳ phương pháp nào sẽ biết chữa đúng hay sai, nếu đúng thì chữa tiếp tục, nếu càng hư tăng cấp độ mà không muốn chết thì phải ngưng ngy tức khắc, chỉ cần ăn uống thức ăn bổ máu bổ đường cho béo phì tăng cân thì khỏi bệnh, khác với lời đồn hù dọa bệnh ung thư ăn đường làm ung thư nặng thêm là sai, nhưng bất cứ đường nào hay chất ngọt nào làm tăng pH kiềm thì tiêu diệt được tế bào ung thư, còn đường cát trắng và một số chất ngọt trái cây làm cho pH nước bọt acid dưới 6 rồi từ từ pH dưới 5 thì tế bào ung thư phát triển toàn thân tây y gọi là di căn là do pH acid...
,
III-SỰ SAI LẦM CỦA TÂY Y KHI NGHIÊN CỨU BỆNH QUA 3 SỐ ĐO ÁP HUYẾT

1-CHỈ ĐO ÁP HUYẾT TAY TRÁI LẦM TƯỞNG LÀ ĐO ÁP HUYẾT TIM MẠCH

a-Điểm sai thứ nhất đo áp huyết tim mạch ở tay trái :
Tây y đã sai ngay từ ban đầu áp dụng máy đo áp huyết để đo tim mạch, mọi người từ trước đến nay vẫn tưởng tây y đi đúng đường. Thật ra máy đo áp huyết không thể trực tiếp đo được tim mạch, chỉ có điện tâm đò mới là đo tim mạch.
Còn áp huyết của tim thay đổi lệ thuộc vào mỗi bữa ăn khác nhau sẽ có kết quả khác nhau do thức ăn khi đo áp huyết bên tay trái. Và áp huyết khi đo bên tay phải lại có số khác với bên tay trái, trong khi chỉ có 1 quả tim mà đo tay trái, và tay phải trước và sau khi ăn khác nhau hoàn toàn cả 3 số, đó là khuyết điểm của tây y nhưng lại là ưu điểm của đông y trùng khớp với chẩn đoán các loại bệnh của đông y theo ngũ hành tạng phủ một cách đơn giản dễ hiểu, vì đo 2 tay, đo hai chân ở cổ chân trong trên mắt cá trong, lại có các con số khác với đo hai tay, thì chỉ có 1 quả tim mà giải thích máu bơm từ tim ra là số trên và khi máu trở về tim số dưới khi tim nghỉ ngơi là sai

Trong khi tây y đo áp huyết tay trái nói về áp huyết của tim là sai, còn theo ngũ hành tạng phủ của đông y, tim thuộc hành hỏa ở trên, nhìn trước ngực bụng theo vòng tròn thuận, bên trái là tay trái thiên về bao tử là Vị, sau bao tử lả lá lách là Tỳ là hành thổ, như vậy đo tay trái là đo sự thay đổi áp huyết trước khi ăn và sau khi ăn của tỳ vị, bệnh của tỳ vị theo các số đo áp huyết có 20 loại số khác nhau, là có 20 loại bệnh của tỳ vị chứ không phải của bệnh tim. Nó sẽ kèm theo dấu hiệu triệu chứng lâm sàng theo đông y đã có sẵn trong tài liệu dấu hiệu triệu chứng lâm sàng của ngũ hành tạng phủ mà môn học đông y Khí công Y Đạo ngành Y Học Bổ Sung đã soạn sẵn từ lâu.
Cũng theo ngũ hành tương sinh : hỏa sinh thổ là tim mạnh thì tỳ vị mạnh, thì con của thổ là kim tức là phế, mẹ bệnh thực thì con bệnh thực, mẹ bệnh hư thì con bệnh hư, mẹ khỏe thì con khỏe, rồi kim sinh thủy là đo áp huyết chân trái thuộc thận trái, đo chân phải thuộc thận phải, cũng có 20 loại bệnh liên quan đến thận, rồi thủy sinh mộc là gan đo áp huyết tay phải cũng làm áp huyết tay phải khác với tay trái cũng ảnh hưởng đến tim, nên bệnh tay phải cũng có 20 loại bệnh của gan làm cho tim bị ảnh hưởng, gan mạnh thì tim mạnh, gan suy thì tim suy, như vậy 4 nơi đo áp huyết mỗi nơi có 20 loại bệnh là 80 loại bệnh được phát hiện nhờ máy đo áp huyết biết ngay kết quả.
Nhu vậy tưởng rằng tây y đã nghiên cứu bệnh theo các số đo áp huyết cũng là sự tiến bộ của tây y biết đo tay trái, tay phải, nhưng nếu cho là áp huyết của tim nếu chữa theo tay trái là vô tình chữa thuốc cho tim lại thành thuốc chữa cho tỳ vị lảm hại đến tỳ vị, nêu đo tay phải tưởng là bệnh của tim lại dùng thuốc chữa tim để chữa cho gan lại làm hỏng gan, do đó từ trước đến nay quy trình chữa bệnh của tây y từ chữa áp huyết tim mạch lại trở thành cách chữa bao tử và gan, mới gây ra trào ngược, chũa sang tiểu đường là tỳ vị lại làm hỏng phổi khí thở ho suyến, lại làm hư thận lọc thận, lại làm hư gan nhiểm mỡ, bao tử thừa acid cuối cùng là ung thư, suy tim, suy gan, suy thận, hoại tử cưa chân mất trí nhớ hư não, bệnh co giật, động kinh, parkinson, tai biến, đột quỵ.
Nếu các thầy đông y, hay các bác sĩ không nghiên cứu áp huyết theo lý thuyết ngũ hành tạng phủ của đông y, để sau này tây y lại dạy các bác sĩ Việt Nam phải đi tu nghiệp học thêm cách khám định bệnh bằng 3 số đo của máy đo áp huyết để cho thuốc thì lại càng chữa sai chết oan nhiều người hơn.
Biển học của tây y càng ngày càng đi đến chỗ bế tắc nên toàn dựa vào máy móc mà không biết quy luật tư nhiên bệnh từ miệng mà vào.
Đông y không phải chỉ có 80 loại áp huyết ở 2 chân 2 tay, vì đấy chỉ là bệnh riêng của mỗi tạng phủ, như chỉ có bệnh ở bao tử, mà cùng lúc có bệnh ở gan thì 20 bệnh nhân với 20 thành 400 bệnh nếu có bệnh vừa gan, vừa bao tử vừa phổi lại có 400 bệnh nhân với 20 là 8000 bệnh...nhưng khi chữa đúng vào nguyên nhân gốc bệnh chứ không phải cho thuốc chữa ngọn 400 bệnh hay 8000 bệnh là sai còn mau làm chết oan nhiều người hơn.

Một thí dụ đơn giản bệnh tỳ vị hư, thận hư , như vậy là áp huyết tay trái và chân trái thì làm gì có 400 lọai thuốc, nhưng nhờ lý luận ngũ hành tìm gốc bệnh thì bệnh khỏi nhanh, do kinh nghiệm đông y từ hơn 2000 năm, dân gian thường nói : Thèm nhỏ dãi, nói phun bọt mép, ý nói khi nhìn hay ngửi thức ăn thơm ngon thì nước dãi chảy ra, thì người nào có chức năng tỳ vị tốt, ăn ngon ăn nhiều người khỏe mạnh. Nói phun bọt mép chứng tỏ chức năng thận tốt, nước thận lên đến cổ họng mới có d9u77o5c nước bọt thì cổ họng không bị khô.

Phân tích về bệnh nếu một người chán ăn, nhìn thức ăn dù thơm ngon cũng không nhỏ dãi là bệnh tỳ vị suy yếu, một người nói nhiều bị khô họng là thận suy, theo ngũ hành tương sinh me-con tỳ vị hư là mẹ sẽ khọng nuôi con là phổi thì phổi cũng hư sinh ra thiếu khí, ho đàm suyến, khó thở, phổi là mẹ của thận yếu không nuôi con là thận thì thận cũng bị suy.
Theo đông y 3 hành liền nhau là thổ sinh kim, kim sinh thủy đều hư, không phải chữa vào 3 kinh bằng thuốc hay bằng thức ăn, mà chữa vào kinh giữa là phổi làm sao cho phổi mạnh thì thận mạnh, và đông y thiếu câu bổ con để dưỡng mẹ, thay vì mẹ nuôi con không được, Như vậy chữa vào phổi, đấy là lỳ luận đông y, thì phải hát cho mạnh khí, nhưng hát làm mất năng lượng đường, hay không có năng lượng đường làm sao hát lâu được, là lại lấy cái kết qủa nghiên cứu của tây y đường là năng lượng, do đó uống nhiều đường rối hát những bài vui, hát karaoke, niệm Phật ra tiếng càng lâu cho văng nước bọt là đã phục hồi chức năng thận không còn bị khô họng, uống đường hát tiếp cho kích thích hạch tiêu hóa ở mang tai cho ra nước dãi tự nhiên đói bụng ngửi được mùi thức ăn thơm ngon sẽ thèm nhỏ dãi.
Cứ hát vui thì tâm vui hưng phấn, muốn biết kết quả tốt hay xấu thì đông y chỉ cần sử dụng một trong 4 phương pháp là : Vọng. Văn, Vấn, Thiết, là biết bệnh tình của một người khỏe hay yếu.
Vọng là nhìn : tướng đi cử chỉ hoạt động mạnh mẽ nhanh nhẹn, mầu sắc da tươi nhuận, mặt sáng hồng hào tươi vui là tốt, ngược lại đi chậm chạp, yếu duối, mặt có sắc xấu, da nhăn nheo.. là có bệnh.
Văn là nghe : nghe tiếng nói, hơi thở. Thí dụ tiếng nói to âm thanh mạnh mẽ, hơi thở đều là phổi tốt, ngược lại tiếng nói nhỏ yếu, hơi thở bất thường hụt hơi là phổi yếu.
Nhưng dù nói to tiếng mà nói lâu thì mệt thì thận yếu, phổi mạnh. Nói to tiếng mà nói suốt ngày không mệt thì cả phổi cả thận đều khỏe. Còn người nào tiếng nói nhỏ nhưng nói suốt ngày không mệt thì thận khỏe hơn phổi.
Vấn là hỏi : Để biết thêm những chi tiết cho rõ hơn, như hỏi về ăn, ngủ, tiêu tiểu tốt không, thích uống nước nóng hay lạnh, có đau đầu hay có chỗ nào đau nhức mỏi không, có nhức đầu chóng mặt không, đứng lên ngồi xuống chóng mặt hay nằm rồi ngồi dậy ngay có chóng mặt không...
Thiết là sờ : bằng tay hay bắt mạch hay bằng máy móc thiết bị để khám
Người thầy giỏi chỉ cần vọng văn mà biết được nguyên nhân bệnh chính xác thì không cần đến giai đoạn vấn, thiết.

b-Điểm sai thứ 2 :
Nói đo tay nào cũng được là sai, Thực tế số đo tay phải khác với tay trái hoàn toàn, có thể nhịp tim tay trái 70 khác xa với nhịp tim tay phải có thể 60, như vậy có nghĩa áp huyết tay trái thuộc bao tử do ăn thức ăn cay làm tăng nhiệt, nếu ăn thức ăn hàn lạnh thì nhịp tim thấp. Nhưng nhịp tim tay phải lúc nào cũng 60 không thay đổi, thì có nghĩa gan hàn lạnh thì máu và mỡ hay dịch tiêu hóa trong gan đặc lại, có thể có sạn mật.

c-Điểm sai thứ 3 :
Khi đo áp huyết bên tay phải thấp, mà tay trái cao do thức ăn thiếu đường chuyển hóa thức ăn, thì thức ăn trong bao tử không tiêu làm tăng áp huyết, mà kết luận áp huyết cao là sai, theo kiểu nói của tây y, một trong hai tay cao, hay một trong hai số tâm thu hay tâm trương cao cũng là bệnh cao áp huyết là sai.
Trong đông y cổ xưa không bao giờ có bệnh tiểu đường hay cao áp huyết, vì áp huyết bên trái thuộc bao tử, lúc cao lúc thấp từ mỗi bữa ăn, có loại thức ăn là tâm thu cao gọi là mạch phù khí, tâm trương cao là mạch phù huyết, thuộc về bệnh thực, khi nhịn ăn chỉ uống nước nhịn ăn bỏ bữa môt vài ngày chỉ uống nước thanh lọc cơ thể hay ăn cháo thì tâm thu tâm trương hết phù chứng bệnh thực sẽ hết, áp huyết trơ lại bình thường.
Trong đông y cũng không có tên bệnh tiểu đường, vì nếu trong thức ăn nhiều tinh bột đường như ăn nhiều cơm thì cơ thể đủ năng lượng làm việc khỏe, nhịp tim cao 80, nhiệt độ tay chân trung bình 36.5 độ C, thì dù đo đường bao nhiêu cũng không phải bệnh tiểu đường.
Nhưng nếu ăn nhiều thừa năng lượng mà không vận động thí các số đo áp huyết cao cả bên tay phải tay trái là bệnh tiêu hóa bị nhiệt ăn nhiều mà vẫn đói, thành bệnh thực chứng tâm thu cao, tâm trương cao, nhịp tim cao, nhiệt độ cao 39-40 độ C, cổ khô khát gọi là bệnh 3 nhiều, thì chỉ nhịn ăn 1 tuần uống nhiều nước thì hết bệnh thực chứng ba nhiều.

d-Điểm sai thứ 4 :
Uống thuốc hạ áp huyết suốt đời là sai, vì thuốc làm hạ tâm thu, tâm trương nhịp mạch của bao tử cho thấp xuống, thành bệnh hư chứng từ cấp độ 1, theo thời gian uống thuốc suốt đời hư chứng sẽ xuống cấp độ 2, rồi cấp độ 3, đến cấp độ 4 thì chính là đang làm hại chức năng bao tử là bộ máy chính tiếp nhận điều chế thức ăn thành máu đi nuôi tế bào đã bị hư hỏng, thì chính các tế bào trong bao tử sẽ bị chết, sinh ra thừa acid, ngưng trệ thức ăn lâu ngày bị lên men là tăng acid loét bao tử, trào ngược thực quản, gây ra bệnh tuyến giáp, bướu cổ, ung thư lưỡi, ung thư thực quản, theo ngũ hành tương sinh mẹ-con , tế bào phổi không được mẹ là tỳ vị nuôi dưỡng, khí lực tâm thu bao tử hư cấp 3,4 làm khí của phổi cũng giảm dần thì phổi mất chức năng hô hấp thì cơ thể thiếu oxy công thức máu Fe2O3 thiếu oxy thì cơ thề thừa sắt mà không có máu, khi phổi thiếu khí thì chức năng ruột già cũng không có khí co bóp ruột già hoạt động để làm nhiệm vụ phân thanh hóa trọc gần như liệt ruột, phân trong ruột không tống ra hết thành khúc ruột thối trở thành ung thư ruột.
Còn chức năng bao tử hư do tâm thu thấp tùy theo khí huyết hư cấp độ 1, khí bao tử yếu là mẹ của phổi thì phổi cũng yếu không đủ oxy trở thành suy hô hấp, phổi là mẹ cụa thận thì thận cũng yếu trở thành suy thận.
Còn áp huyết tay phải thuộc gan thì thuốc hạ áp huyết cũng làm tâm thu, tâm trương của gan đang thực chứng trở thành hư chứng là thiếu máu, thì gan là mẹ của tim, sẽ không đủ máu cung cấp cho tim tuần hoàn, thì sẽ bị suy tim, hẹp hay hở van tim, gan thiếu máu lên nuôi não, nuôi các sợi thần kinh gân cơ sinh đau nhức, con của phổi là thận thủy và bàng quang cũng thiếu khí lực, nên đi tiểu chỉ đẩy nước tiểu ra ít một, nên cứ bị đi tiểu nhiều lần, và thận là mẹ của gan, thận hư mất chức năng lọc máu dẫn đến thận ứ nước làm hại tim, lúc đó tim phải rút toàn bột đường trong người để duy trì năng lượng cho tm hoạt động thì có dấu hiệu tăng áp huyết giả gọi là chứng hư giả thực, có lẽ điều này mà tây y phải duy trì uống thuốc hạ áp huyết suốt đời, và khi thận khí hư, nhiều nước ứ đọng trong cơ thể thành chân tay phù thủng, nước tiểu có nhiếu albumin, protein, và creatinin dẫn đến phải lọc thận, dấu hiệu bệnh cũng làm cho áp huyết chân tăng cao giả, mà nhịp tim thấp, chân tay lạnh, phình tĩnh mạch chân, và sưng tuyên tiền liệt dẫn đến bí tiểu ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới và ung thư tử cung ở nữ giới, cũng là hư chứng giả thực, còn nếu thiếu máu xuống chân thì hẹp tĩnh mạch chân, bắp chân teo.
Còn gan là con của thận có mẹ bị hư cấp độ 3,4 phải lọc thận, trong khi áp huyết bên gan cũng thực chứng trở thành hư chứng cấp độ 3,4, mà mẹ là thận cũng hư không giúp gì cho con, nên suy gan, sưng gan, gan nhiễm mỡ, nhiễm toan, thiếu máu, không cung cấp máu cho tim tuần hoàn, gan thuộc mộc là nguồn cung cấp chất đốt cho hỏa là tim giữ sức nóng ấm để bảo vệ máu không bị hư hàn hay bị bị đặc lại trở thành bệnh tâm hàn, gây ra đột quỵ.
Tây y chữa hạ áp huyết để ngừa tai biến gây tê liệt thực chứng là chân tay co cứng, cuối cùng thành hư chứng chân tay vô lực cũng trở thành tai biến liệt nửa người gọi là tê bại xuội cũng là hậu quả của thuốc không phải chữa bệnh áp huyết của tim mạch mà làm hại chức năng bao tử và chức năng của gan.
Tại sao các giáo sư tiến sĩ dạy đông y ở Việt Nam không biết dến hậu quả của thuốc hạ áp huyết gây ra biến chứng truyền kinh theo ngũ hành tạng phụ để bán thuốc chữa bệnh đủ 5 tạng cho đến khi bệnh nhân chết vì thuốc hay sao mà không biết các bệnh trong đông y không có tên bệnh tiểu đường hay bệnh cao áp huyết. Nên chính các thầy dạy đông y, khi bị thực chứng của bao tử, của gan, của thận làm mạch phù, không biết chữa theo ngũ hành, lại bỏ đông y tự mình uống thuốc chữa bệnh cao áp huyết và đường huyết của tây y và phải ngồi xe lăn, làm cho không còn ai tin tưởng vào đông y, là đã giết chết ngành đông y là tội đồ của dân tộc.

e-Điểm sai thứ 5 .
Trong nghiên cứu của các bác sĩ tây y ở nước ngoài, có nói đến nhịp tim ban ngày thì cao, nhưng khi ngủ nhịp tim và áp huyết sẽ xuống thấp, thì có nghĩa cơ thể tự động điều chỉnh, nhưng không giải thích được tại sao nhịp tim thấp vào ban đêm.
Chịu khó nghiên cứu bằng cách thử uống đường lên 200mg/dl trước khi đi ngủ để có nhịp tim 80, sau khi ngủ 8 tiếng ban đêm, khi thức dậy, đo lại áp huyết thấy thấp, nhịp tim thì xuống còn 65, thì đường huyết xuống thấp còn 100mg/dl.
Nếu thử đi thử lại nhiều lần đều cho ra kết quả đúng thì lý thuyết tiểu đường loại 1 loại 2, cơ thể thiếu insulin là sai, họ đổi lại có insulin nhưng cơ thể kháng insulin cũng là sai, dù kháng insulin hay thiếu insulin thì khi ngủ ban đêm đường cũng xuống thấp thì nhịp tim cũng xuống thấp. Như vậy là trong đông y không có tên bệnh tiểu đường.

g-Điểm sai thứ 6.
Tây y nói dấu đầu lòi đuôi, là không được tập thể dục nhiều sẽ làm hạ đường, thì tại sao khi đường cao mà không tập thể thao làm hạ đường mà phải uống thuốc hạ đường làm gi. Nhưng hậu quả này lại gây tai hại rất lớn cho những người nghèo phải vất vả lao động chân tay còn mất sức nhiều hơn tập thể dục thể thao để kiếm tiền nuôi thân thì cơ thể tự động sẽ mất nhiều năng lượng dường, mà họ sợ bệnh tiểu đường do tây y hù dọa, thì cơ thể của họ bắt buộc phải mất thịt sụt cân là đường trong thịt trong mỡ trong xương mất đi để cho tim hoạt độnt nên đường đo được là đường mất đi gọi là đường âm -200mmg/dl,mà người lạnh, nhịp tim thấp dưới 60, khiến họ khó thở mệt tim cho nên vào bệnh viện cấp cứu, thay vì phải tiêm đường glucoza cho tăng đường thì lại vui vẻ cho bệnh nhân hạ đường huyết dẫn đến mất thêm đường, mất thêm năng lượng người lạnh dẫn đến hôn mê tim ngùng đập, bác sĩ xin tỏ lòng thương tiếc là chúng tôi đã cố gắng cứu chữa theo đúng quy trình, là phủi tay vô trách nhiệm đẩy trách nhiệm về cho Bộ Y Tế đã đưa ra quy trình này áp dụng cả hơn hai chục năm làm chết oan bao nhiêu ngườu dân nghèo vô tội qua bao nhiêu lần thay đổi Bộ Trưởng Y Tế.

h-Điểm sai thứ 7 :
Ngành tây y khuyến khích uống nước nhiều là trái với nghiên cứu về chức năng thận, cứ mỗi giờ thận có khả năng lọc 6 lít dung dịch máu và nước, loại bỏ chất dư thừa, giữ lại các chất bổ cần thiết, nên trong 6 lít đã chắt ra được 100cc nước bẩn trong 1 giờ, trong 24 giờ chắt được 2400cc, nên khi đi tiểu tối đa 1 ngày là 2,4 lít nước tiểu trong đó có thể thừa muối, có thể đường dư thừa, các cặn vôi...
Và khi đi xét nghiệm máu, phải nhịn ăn và nhịn uống nước trước 8 tiếng, có nghĩa bao tử trống rỗng trong máu, thì xét nghiệm máu mới chính xác là trong 1 cc máu có bao nhiêu hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu,..., nếu uống nước làm loãng máu thì lương hồng cầu sẽ giảm, lượng đường trong máu sẽ giảm.
Như vậy nếu người nào có đường huyết cao mà uống thêm nước cho giảm lượng đường huyết hay tập thể dục cho tiêu hao lượng đường huyết cao thay cho insulin thì không cần thiết phải tiêm insulin, thì ngành sản xuất insulin mất đi rất nhiều lợi tức là điều ngành tây y không bao giờ muốn điều này xảy ra, nên các bác sĩ không khuyên chúng ta uống thêm nước và tập thể dục thể thao để tự chữa khỏi bệnh tiểu đường, mà muốn những người bị bệnh tiểu đường cuối đời phải đi vào con đường lọc thận thay thận hay chân bị hoại tử cưa chân mới đúng quy trình của tây y, ngành đông y theo cách chữa của tây y cũng bào chế thuốc chữa cao áp huyết và đường huyết thì không phải là nghề đông y chân chính.

i-Điểm sai thứ 8 :
Đối vớ những người uống nghiện rượu, theo nghiên cứu lâm sàng của tây y thì rượu làm hạ đường huyết, nên những người nghiện rượu không bao giờ có bệnh đường huyết cao thật, mà tiêm insulin là chắc chắn họ sẽ chết.
Không có đưa kiến thức y học phổ thông vào ngành giáo dục để phòng ngừa bệnh, nên mọi người hay phạm phải, uống nhiều rượu thì lại đi tiểu ra nước tiều nhiều hơn lượng nước uống vào là người gầy, do mất nước mất trí nhớ. Đó là những gì mà các bác sĩ tây y nước ngoài đã nghiên cứu được, sau khi họ nghiên cứu đầy đủ sẽ trở thành môn học chính thức cho nhữa ai học tây y sau này thì lại càng đi trái nghịch với lý thuyết đông y gây ra thảm họa chết oan người nhiều hơn.

k-Diểm sai thứ 9 :
Đường làm tế bào bị ung thư là sai hoàn toàn, vì tây y đã có lý thuyết tất cả các loại thức ăn vào trong người đều chuyển hóa thành năng lượng đường glucose, đạm, chất béo, và oxy là 4 chất căn bản để nuôi tế bào phát triển giúp con người khỏe mạnh. Như vậy tế bào nào cũng phải có đủ 4 chất từ thức ăn chuyển hóa thành.
Tại sao phải cần 4 chất này, vì tây y đã nghiên cứu sự kết hợp kỳ diệu của chúng là glucose kết hợp với protein biến thành máu, thành insulin là chất dẫn máu đến cho các tế bào, gọi là ăn chúng, và trong tế bào cũng nhận oxy từ máu và loại bỏ ra chất thải vào máu để thận lọc lại máu đưa về gan và đường dư thừa về gan làm thành đường dự trữ glycogen.
Khi tế bào bệnh thì gây bệnh cho con người, vì nó thiếu một hay hai trong 4 chất đó, 4 chất kết hợp thành máu và mỡ, thì máu nuôi thịt, mỡ nuôi dây thần kinh ống máu, vỏ bọc tế bào , tạo ra da gân sụn xương.
Mọi người chỉ thấy hình ảnh tế bào ung thư ăn đường, chứ thật ra té bào nào cũng ăn đường cà, tuy nhiên đường cát trắng có tính acid khi thử pH nước bọt có pH dưới 6 thì tế bào nào sống trong môi trường acid thì bị ung thư, khi cơ thể đang có tế bào ung thư thì pH sẽ là 5 thấp hơn nữa là tế bào ung thư di căn toàn thân. Đường dùng để phục hồi sự sống cho tế bào ung thư phải là đường cát vàng có pH kiềm, và những người bị ung thư do kiệng đường, ăn ít, cơ thể không đủ lượng máu, không đủ đường glucose kết hợp với protein biến thành máu, cần phải uống thêm bột Whey protein pha nhiều đường cát vàng hay uống thêm nhiều hộp sữa đặc Ông Thọ vừa có nhiều protein và đường, để cơ thể tạo máu tăng cân, như trẻ em mới sanh uống sữa đặc Ông Thọ vẫn phát triển khỏe mạnh chắc da thịt hồng hào khỏe mạnh.

l-Điểm sai thứ 10 :
Khi xét đến bệnh tiểu đường không biết phân biệt đường dương cao là thừa đường thì béo phì, đường âm cao là thiếu đường thỉ bị giảm cân, thì phải kèm theo đường cao mà nhịp tim cao, nhiệt độ tay chân cao, là cơ thể nóng trong nóng ngoài, thay vì tiêm insulin thì bảo bệnh nhân uống nhiều nước và tập thể dục chạy nhẩy tại chỗ cho ra mồ hôi rồi thử lại đường huyêt sẽ xuống.
Còn đường cao người gầy, nhịp tim thấp, chân tay lạnh thì cho bệnh nhân uống thêm đường hay khi bệnh nhân hôn mê bất tỉnh thì tiêm đường glucoza thỉ khỏi bệnh,còn tiêm insulin thì bị hôn mê tim ngưng đập thì bị chết oan.
Nhưng lưu ý khác với ngưới đo áp huyết thấp, nhịp tim cao, đường huyết thấp là cơ thể thiếu máu nguyên nhân do thiếu đường va thiếu ăn những protein có nhiều chất đạm để bổ máu, cũng có thể nhịp tim cao nhiệt độ thấp, chân tay lạnh, đường huyết cao là đường âm làm chân tay lạnh cũng không được tiêm insulin, mà phải tiêm thêm đường glucoza.
II-Ngành Y Học Bổ Sung của môn Khí Công Y Đạo Việt Nam ra đời từ năm 1980

Mục đích chọn những ưu điểm của tây y và đông y kết hợp thành một phương pháp đơn giản hướng dẫn người dân tự học cách khám định bệnh và cách tự chữa cho mình khỏi bênh có kết quả nhanh đỡ tốn kém tiền bạc, thời gian và để tự giúp mình giúp người.
Các tài liệu và kinh nghiệm chữa bệnh từ năm 1980 đến nay đã phổ biến nhiều trên các trang nhà dưới đây để mọi người tham khảo và tự học.
Chúng tôi hy vọng môn Y Học Bổ Sung kết hợp đông tây y hướng dẫn mọi người khám bệnh bằng các dụng cụ y khoa đơn giản nhu máy đo áp huyết, máy đo đường huyết, súng bắn nhiệt kế, giấy quỳ thử pH nước bọt, đường cát vàng, muối đang Epsom, bột Baking Soda, dùng để theo dõi sự chuyển hóa Tinh-Khí-Thần từ mỗi bữa ăn hay thuốc uống tốt hay xấu, trước khi ăn hay uống thuốc và sau khi ăn 30 phút hay sau khi uống thuốc được 1 giờ thì phải đo lại áp huyết 2 tay, đường huyết, nhiệt độ trên trán, trên đầu ngón tay út trái, đầu ngón chân út trái, để biết sự hấp thụ và chuyến hóa thức ăn thuốc uống thuận hay nghịch bao nhiêu phần trăm, tây y không biết khám phá tìm ra được sự chuyển hóa thức ăn thuốc uống của cơ thể biết đúng hay sai để thay đổi điều chỉnh thức ăn thuốc uống cho kịp thời chứ không phải đợi đến định kỳ 3 tháng hay 6 tháng, nếu may ra dúng thì tốt, nếu sai thì trong 3 tháng hay 6 tháng đã chữa sai thì bệnh nhân sẽ bị chết oan uổng, nhất là theo dõi cách chữa ung thư của tây y đúng hay sai trước khi hóa xạ trị và sau khi hóa xạ trị tốt hay xấu là có thể biết ngay.
Chúng tôi hy vọng tài liệu của môn Y Học Bỗ Sung này đến được tay của Bộ Y Tế Việt Nam, đến được tay các bác sĩ đông tây y và các Cơ Quan Y Tế đông tây y ở các tỉnh thành và những người có thẩm quyền nghiên cứu đua vào chương trình giảng dạy của ngành đông tây y Việt Nam.

(tiếp theo...)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO Á

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 7 Tháng 4 05, 2025 12:07 pm

PHẦN 3 .

TÌM CHỨC NĂNG CHUYỂN HÓA CỦA BAO TỬ TRƯỚC VÀ SAU KHI ĂN HAY UỐNG THUỐC HAY HÓA XẠ TRỊ LIỆU TỐT HAY XẤU.

https://youtu.be/eZL4IQfKNsQ

Tây y không có cách gì biết ngay được chức năng chuyển hóa của bao tử và gan trước và sau khi ăn, đúng hay sai, sau khi dùng thuốc hay trước và sau khi hóa xạ trị liệu bệnh ung thư đúng hay sai có lợi hay hại cho cơ thể, vì không biết đầy đủ công dụng của máy đo áp huyết áp dụng theo sự biến hóa của ngũ hành tạng phủ, nếu không biết đến môn học Khí Công Y Đạo là ngành Y Học Bổ Sung kết hợp những ưu diểm của đông y và tây y trong chữa bệnh.

I-Mọi người có biết tại sao đời này có nhiều người bị ung thư hay không ?

Theo nguyên tắc chữa bệnh của đông y cổ xưa, sau khi thầy thuốc khám bệnh theo tứ chẩn Vọng, Văn, Vấn, Thiết, rồi chọn phương án dùng thuốc hay châm cứu, sau đó tính toán chọn lựa các vị thuốc cần bổ hay tả theo quân-thần-tá-sứ, vị thuốc quân là vị thuốc chính chủ lực để chữa, giống như vị bộ trưởng của một quốc gia, vị thứ hai là thần đi trợ lực giống như các thứ trưởng chuyên môn, vị thứ ba là những vị thuốc gia giảm để trung hòa giải tính độc hại của thuốc, thường là thuốc cam thảo, giống như là những người trong lãnh vực chuyên môn, vị thứ tư là các đại sứ, là sứ giả dẫn đoàn đi đến đâu, sứ là vị thuốc có tính mặn thì thuốc chữa dẫn vào thận, tính chua dẫn thuốc chữa vào gan, tính đắng dẫn thuốc chữa vào tim, tính ngọt dẫn thuốc chữa vào tỳ, tính cay dẫn thuốc chữa vào phế.
Thầy thuốc đông y tính toán các vị thuốc cho thành một thang thuốc, và cho bệnh nhân uống thử 3 thang trước, sau đó bắt mạch lại thấy tốt thì mới tiếp tục cho dùng thêm vài thang cho khỏi bệnh, còn không thấy tốt hơn thì phải bắt mạch lại rồi cho thuốc khác hay toa thuốc cũ gia giảm liều lượng hoặc thêm thuốc mới hay bớt thuốc cũ.
Trong đông y thầy thuốc khi cho thuốc về sắc để uống phải dặn kỹ để bệnh nhân làm theo đúng tránh rủi ro thiệt mạng mà bệnh nhân không để ý.

Thí dụ thầy thuốc đã tình toán kỹ sự lợi hại của thuốc, chỉ được sắc uống một lần, không được sắc uống lần thứ hai.
Như đã có rủi ro đáng tiếc như sau khi người nhà sắc thuốc lần đầu cho bệnh nhân uống thấy có công dụng bệnh nhân khỏe ngay, thuốc còn lại ngửi thấy vẫn còn mùi thuốc thơm bỏ đi thì tiếc, sắc cho uống lần thứ hai thì bệnh nhân chết, và kiện thầy thuốc lên quan, tại sao bệnh nhân lại bị chết như thế. Thầy thuốc trình bầy là trong vị thuốc hơi có độc, theo tây y cũng liệt kê phân loại những vị thuốc tây có độc bảng A, bảng B dùng để chữa bệnh, Khi sắc 1 lần thì độc tố ra ít, và các thuốc có mùi thơm chống độc còn mạnh nên bệnh nhân khỏe, nếu sắc lần thứ hai thì độc tố tiết ra nhiều mà các vị thuốc có mùi thơm chống độc không còn, nên bệnh nhân chết, do người nhà tưởng thuốc tốt đã sắc cho uống lần thứ hai.

Còn có loại thuốc như chữa bệnh xơ gan cổ trướng nặng thập tử nhất sinh, thầy thuốc cho 1 thang xổ cho đi cầu là khỏi bệnh, vì bệnh nhân ở tỉnh xa đi lại tốn kém mà chỉ nhận được 1 thang thuốc, rôi sau lại phải từ tỉnh lên chỗ thầy khám lại tốn kém tiền đi lại, nên
xin 2 thang, khi uống xong 1 thang, bệnh nhân thầy bụng nhẹ, khỏe, uống tiếp thang thứ hai thì bệnh nhân chết, cũng không thể bắt đền thầy thuốc được, đó là thầy giỏi, tại lỗi của người nhà.

Còn trường hợp thầy không có kinh nghiệm. hay không thuộc bài, ở quê lúc đêm có một bà vợ đau bụng rên la lăn lộn, chồng bà chạy đến nhà thầy gõ cửa xin cứu mạng vợ đang bị đau quặn bụng, thầy vội vàng thắp đèn tìm sách thuốc thấy có ghi : Đau bụng uống nhân sâm, rồi đưa nhân sâm cho người chồng đem về cho vợ uống, bệnh nhân uống xong thì bệnh nhân bị chết, người chồng thưa lên quan, quan hỏi thầy thuốc, nhà ngươi cho thuốc có theo sách vở nào không, thầy thuốc nói : Dạ, bẩm có. Khi đem sách thuốc đến cho quan đọc : Đau bụng uống nhân sâm, rồi mở sang trang kế đọc tiếp : thì chết.

Như vậy cách chữa hóa xạ trị liệu hay các thuốc tây y cho bệnh nhân suốt đời cũng vậy, uống vài lần thì tốt, vì bệnh thực chứng đã hết thực chứng mà uống tiếp tục trở thành hư chứng, trong khi người dân kém hiểu biết, ngay cả các bác sĩ cho toa đúng quy trình, theo hướng dẫn của ngành y, nhưng không có ai biết phản ứng phụ của thuốc uống lâu dài sẽ chết, thí dụ điển hình áp huyết cao 170/100mmHg uống thuốc hạ áp có kết quả xuống bình thường 125/77mmHg 75, thay vì phải ngưng, lại phải uống suốt đời áp huyết xuống 100/65mmHg cơ thể mệt mỏi chán ăn, xin bác sĩ cho ngưng không được, bảo mệt mỏi chán ăn là bệnh khác, còn đã bị bệnh áp huyết cao và bệnh tiểu đường thì phải uống thuốc
suốt đời, và hù dọa câu ngưng thuốc áp huyết sẽ tăng vọt, nên áp huyết tâm thu xuống thấp dưới 90mmHg đã làm cơ thể yếu do mất khí lực, mất hơi thở, mất oxy là mất máu, cuối cùng là tai biến bại xuội, hay tâm trương thấp là thiếu máu cơ tim sẽ đột qụy tim ngưng đập, hay cả 3 số áp huyết xuống thấp dưới 75/50mmHg 50 thì chết vì ung thư.
Nói đến đây thì mọi người đã biết nguyên nhân tại sao ung thư, đó là sự chuyển hóa thuốc của cơ thể và thức ăn thuốc uống từ tốt trở thành xấu mà các thầy thuốc tây y không biết, hay cố tình không biết, nếu bệnh nhân biết cơ thể mình càng chữa càng nặng mà từ chối không tiếp tục theo hết liệu trình chữa bệnh của tây y mà cũng không được, có nghĩa không cho bệnh nhân có ý kiến, can thiệp.

II-Sự chuyển hóa của tạng phủ.
Mọi người nên tự học cách theo dõi sự chuyển hóa của các chức năng tạng phủ trong cơ thể mình về 3 yếu tố tinh-khí-thần để kiểm chứng từng mỗi bữa ăn đúng hay sai, từng loại thuốc uống có đúng bệnh hay sai..., bằng các thiết bị dụng cụ y khoa của tây y như sau cần đo mỗi ngày để biết rõ nguyên nhân bệnh của mình còn nhanh và chính xác hơn đi khám bác sĩ :
-Máy đo áp huyết điện tử đo ở bắp tay, chứ không phải máy đo ở cổ tay không chính xác.
-Máy đo đường huyết.
-Súng bắn nhiệt kế đo ở trán biết nhiệt độ của bao tử, đo nhiệt kế ở đầu ngón tay út trái là nhiệt độ của đường kinh Tâm thuộc Tim, và nhiệt độ ở đầu ngón chân út trái là nhiệt độ của đường kinh thận có liên quan đến thần kinh não xem máu có lên não không, theo đông y chỗ nào có máu chạy thì chỗ đó ấm, đo nhiệt độ đều hiện ra số.
Nếu có máu mà máu không chạy thì chỗ đó tắc gây đau nhức tê bại, đo nhiệt độ sẽ thấp hay máy chỉ low, là không bắt được độ. Người có nhiều máu mà sờ khắp người hay đo nhiệt độ khắp người không có độ là máu không chạy chính là người đã chết.
-Giấy quỳ thử pH nước bọt, để phòng ngừa ung thư khi có pH acid do thức ăn có nhiều chất chua
-Ngoài ra phải có bột baking soda giúp tiêu hóa thức ăn khi thức ăn bị chuyển hóa nghịch gây ra chứng trào ngược thức ăn, baking soda làm tăng pH kiềm chữa loét bao tử, trừ vi khuẩn virus, và tiêu diệt tế bào ung thư, cũng dùng để chữa thức ăn không tiêu không chuyển hóa thành khí, thành máu làm cho áp huyết thấp, và cũng tẩy da chết do hoại tử tế bào da chân phải bị cưa chân tháo khớp.
-Muối đắng Epsom loại uống, dùng trong trường hợp sau khi ăn thức ăn không tiêu làm đầy bụng khó thở, mệt tim làm tăng áp huyết cả 3 số đều cao.
Cả hai loại baking soda hay muối đắng Epsom đều có tính xổ thức ăn trong bao tử và ruột chữa bệnh cho bao tử và ruột, tùy theo áp huyết cao và áp huyết thấp để dùng cho đúng
-Đường cát vàng, để giảm đau, làm tăng thân nhiệt và tăng nhịp tim, và đủ đường glucose kết hợp với protein của thức ăn sẽ được chuyển hóa thức ăn thành máu theo lý thuyết của tây y.
Nếu cơ thể thiếu đường để chuyển hóa protein thành máu thì protein dư thừa sẽ đi theo đường tiểu có protein làm nghẹt chức năng lọc thận..
Cần có sẵn trong nhà chanh, gừng, dùng chanh làm hạ áp huyết tâm thu pha thêm đường
làm tăng nhịp tim, Hay dùng đường gừng chữa áp huyết thấp không bị tụt áp huyết và đường giữ ấm người không bị hạ nhịp tim
Khi thức ăn chuyển hóa nghịch lên họng thì thức ăn không biến thành máu mà biến thành mỡ do thiếu đường, nên khi xét nghiệm máu có kết quả ghi glucose bình thường, negative là trong tiêu chuẩn thấp từ 3.9-5.9mmol/l=70-99mg/dl thì lại có hậu quả mỡ máu cao cholesterol, triglycerid cao, và thức ăn cũ còn giữ lâu trong bao tử lên men làm tăng acid gây loét bao tử và làm tăng men gan cao, nên phải xổ thức ăn cũ hư thối trong bao tử cho xuống ruột để đi cầu tống ra ngoài, nhưng tùy theo áp huyết cao thì xổ bằng muối đắng Epsom loại uống chứ không phải loại tắm, thì sau 2 tiếng đồng hồ sẽ đi cầu nhanh, nên không được rời khỏi nhà, khi xổ áp huyết cao thành thấp, và khi xổ cơ thể sẽ mất đường để tránh bị mệt sau khi xổ phải uống thêm đường đẻ duy trì thân nhiệt và nhịp tim không bị tụt thấp.
Ngược lại khi áp huyết thấp không được xổ bằng muối Epsom sẽ làm tụt thêm áp huyết, mà phải xổ bằng bột baking soda giết chết tất cả virus, vi khuẩn, sán lãi, vi trùng, làm vỡ các polyp trong đường ruột, khi xổ nó cũng làm tụt đường huyết, nhưng lám tăng áp huyết, baking soda mặn nên liều lượng xổ là 1 thìa cà phê bột baking soda pha 5 thìa cà phê đường cát váng để giảm bớt mặn của baking soda cho dễ uống và tăng đường cho cơ thể khỏi bị mất đường và tăng pH kiềm cho bao tử không dư thừa acid gây loét bao tử và thừa kiềm để tiêu diệt tế bào ung thư .

Chúng ta dùng những dụng cụ y khoa này để theo dôi sự chuyển hóa tốt xấu của cơ thể biết tốt hay xấu ngay tức khắc sau khi ăn, hay ngay sau khi uống thuốc, đo áp huyết và đường huyết, nhiệt độ và pH biết kết quả nhanh và tiện lợi, để điều chỉnh kịp thời cho áp huyết luôn luôn nằm trong tiêu chuẩn tuổi.

Còn tây y muốn biết sự chuyển hóa thì phải đợi theo chu kỳ 3 tháng hay 6 tháng hay 1 năm xét nghiệm máu tổng quát một lần, khác với đông y, sau khi uống thuốc bắc, 1,2,3 thang đi tái khám thầy thuốc bắt mạch biết ngay sự chuyển hóa thuốc trong cơ thể tốt hay xấu biết ngay là cho thuốc đúng hay sai bệnh.
Như vậy vẫn còn chậm hơn những ai đã học môn Đông Y Khí Công Y Đạo, thì thầy thuốc khám bệnh cho mình mỗi ngày trước và sau mỗi bữa ăn không phải là bác sĩ, hay thầy thuốc đông y, mà là 4 cái máy đơn giản của tây y chính là các bác sĩ luôn có mặt tại nhà để do lúc nào cũng được chúng ta sẽ biết ngay, một món ăn hay một loại thuốc uống vào cơ thể có chuyến hóa làm cho tinh-khí-thần hay khí huyết và nhịp tim có thay đổi tốt hay không, thức ăn thuốc uống đó có đúng bệnh không. Nếu sai không làm cho áp huyết về tiêu chuẩn thì sẽ kịp thời thay đổi.

Thay đổi bằng cách nào, thì chúng ta thường nói tùy theo cơ địa mỗi người, cùng một món ăn có thể đúng với người này mà không đúng với người kia, nên không có tiêu chuẩn chung để bắt chước được, mà tự mình phải để ý theo dõi học hỏi mỗi ngày bằng máy đo áp huyết để ghi nhận mình thường ăn món nào làm tăng tâm thu, tăng tâm trương, tăng nhịp tim, tăng nhiệt độ, tăng lượng máu thì mình ghi vào quyển sổ tay sức khỏe, món ăn nào làm hạ tâm thu, hạ tâm trương, hạ nhịp tim, hạ nhiệt độ, giảm mỡ máu...thì cũng ghi nhớ, để áp dụng khi áp huyết cao thì dùng món ăn thức uống hạ áp huyết, hay khi áp huyết
thấp thì dùng những món ăn nào đã ghi nhớ đem ra áp dụng cho áp huyết tăng lên tiêu chuẩn, cho hợp với cơ địa của mình. Cho nên cá thầy thuốc tây y và đông y cổ xưa đếu nói thức ăn chính là thuốc.

1-Nguyên nhân tại sao uống thuốc áp huyết và tiểu đường không bao giờ khỏi bệnh.

Chúng ta nhớ rằng áp huyết thay đổi theo những món ăn mà vì chúng ta không có máy đo áp huyết để theo dõi, chẳng may khi thấy cơ thể khó chịu, đi bác sĩ khám đúng lúc áp huyết cao, bác sĩ kết tội mình bị áp huyết cao, phải uống thuốc hạ áp huyết suốt đời, rõ ràng là thuốc có công dụng làm hạ áp huyết thật, nhưng chúng ta không theo dõi các món ăn nào làm tăng áp huyết để tránh thì lại cứ tiếp tục thích ăn những món đó làm áp huyết càng ngày càng tăng là lỗi của chúng ta.
Cả bác sĩ và cả chúng ta đều không biết thức ăn có thể làm tăng hay hạ áp huyết, cũng vì thế các bác sĩ mới bắt chúng ta phải dùng thuốc suốt đời, nếu bỏ thuốc áp huyết sẽ tăng vọt, thì thật ra thuốc làm hạ áp huyết làm sao làm tăng áp huyết được, mà chỉ vì chúng ta tin đã có thuốc hạ áp huyết nên cứ ăn thoải mái những món ăn làm tăng áp huyết thì nó bị tăng vọt thật từ thực chứng cấp độ 1, tăng lên cấp độ 2 rồi 3 hậu quả áp huyết tâm thu cao thì bể mạch máu não hậu qủa tai biến chân tay cứng co quắp, tâm trương cao thì vỡ tim đột qụy.
Ngược lại người khác phải dùng thuốc hạ áp huyết nên sợ áp huyết cao nên kiêng ăn đủ thứ vô tình những món thức ăn thuốc uống đó đã làm hạ áp huyết rồi mà uống thêm thuốc hạ áp huyết làm áp huyết càng xuống thấp gấp đôi, nên bệnh đang từ cao áp huyết thực chứng cấp 1,2, vừa kiêng ăn vừa dùng thuốc hạ áp huyết đến nỗi áp huyết tụt thấp trở thành hư chứng cấp 1,2, rồi 3,4 là bị tai biến bại xuội chân tay vô lực, tâm trương thấp thiếu máu cơ tim cục bộ hậu quả đột quỵ tử vong.

Cho nên người xưa biết rằng thức ăn làm mạch phù là khí lực tâm thu cao thì bệnh, thức ăn làm mạch trầm là khí lực tâm thu thấp thì mệt yếu sức, thầy đông y cho thuốc uống là khỏi, khỏe lại bình thường, mà vẫn không hề biết bệnh áp huyết cao là gì.
Ngày nay ai biết theo dõi áp huyết trước và sau bữa ăn, và đã có kinh nghiệm ghi vào sổ tay trước đã ăn món gì thì tránh không ăn món đó sẽ làm tăng áp huyết, ngược lại đo áp huyết thấp thì những món ăn đó dùng được, nên không bao giờ bị bệnh cao áp huyết, đó là lý do đông y không có tên bệnh áp huyết, mà nguyên nhân chính là thức ăn làm chuyển hóa của bao tử và gan tốt hay xấu mỗi lúc mỗi khác tùy theo món ăn.

Đa số những người bị áp huyết cao tin tưởng theo tây y dùng suốt đời để không bao giờ bị tăng áp huyết, nên không cần phải mua máy đo áp huyết hay máy đo đường huyết để đo mỗi ngày, có bác sĩ còn nói không cần phải đo nhiều, thỉnh thoảng mới đo thôi, ở bên nước ngoài còn giới hạn không cho mua que thử tiểu đường nhiều, mỗi ngày chỉ thử 1 lần, và ai có xét nghiệm máu được xác định có bệnh tiểu đường mới được giấy phép mua máy, không có giấy bác sĩ thì không mua máy đo đường được, có ngờ đâu hậu quả áp huyết xuống thấp và đường huyết xuống thấp mà không biết.
Có lần tôi dẫn 1 bệnh nhân khám bệnh tại bệnh viện, bác sĩ kết luận bị bệnh tiểu đường, tôi nói với bác sĩ là tôi đo đường huyết cho bệnh nhân mỗi ngày trước khi ăn, sau khi ăn ngày đo 6 lần, bác sĩ trợn mắt la tôi làm sao mà có nhiều que thử đường mà đo nhiều lần vậy. Tôi mới biết, không có bác sĩ nào cho mua que thử đường nhiều cả, mua que thử đường phải có hồ sơ bệnh tại một nhà thuốc. Cũng may là còn có nơi bán tự do trên mạng không qua kiểm soát của ngành y, nên tôi mới có nhiều máy và nhiều que thử đường để kiểm chứng các món ăn thức uống nào làm tăng đường hay giảm đường trong nhiều năm mới thấy được cái sai cố tình của tây y hạ tiêu chuẩn đường huyết xuống thấp để tạo ra cái bẫy gây ra hậu quả bệnh từ thực chứng trở thành hư chứng tăng cấp độ để bệnh nhân phải dùng đủ loại thuốc chữa đủ loại bệnh để kinh doanh nghề thuốc khiến nhiều người bị chết oan uổng vì thuốc.

Tôi kể có trường hợp một bà 68 tuổi bị mệt ăn uống không được, đi lại trong nhà mình thường hay té ngã, con gái đưa bà vào bệnh viện xem bà bị bệnh gì, sau 3 tuần ở trong bệnh viện sức khỏe càng ngày càng yếu, cô con gái mời tôi đến bệnh viện giúp cho bà. Tôi thấy các thuốc mà bác sĩ đang chữa và có đo áp huyết và đường huyết mỗi ngày, tôi thấy khi bệnh nhân mới vào có số đo ap huyết dưới 100/60mmHg, và có 5 ngày không đo áp huyết, tôi hỏi y tá sao 5 ngày lại không đo, y tá trả lời không đo được vì áp huyết thấp quá, phía dưới 5 ngày không đo áp huyết mà vẫn cho uống thuốc và đường huyết 4.5mmol/l vẫn cho dùng thuốc tiểu đường. Tôi hỏi y tá bệnh nhân bị bệnh gì, y tá nói bác sĩ đang thử máu chưa tìm ra bệnh, tôi hỏi áp huyết và đường đã thấp sao lại cứ cho thuốc hạ áp huyết và hạ đường, y tá trả lời, tìm bệnh là do bác sĩ, còn bệnh áp huyết và tiểu đường vẫn phải dùng tiếp tục không được bỏ ngày nào. Tây y chữa cách này bệnh nhân chỉ có chết, tôi hỏi bệnh nhân để biết tình trạng sức khỏe bệnh nhân . Tôi hỏi : bà có thể quay đầu qua trái qua phải được không, bà trả lời rất khẽ : không có sức. Tôi lại hỏi bà có thể dơ tay lên xuống hay nhúc nhích chân được không, bà trả lời không có sức. Tôi hỏi cô con gái, nguyên nhân tại sao đưa cụ vào bệnh viện. Cô trả lời cụ đi trong nhà cứ tự nhiên té ngã nhiều lần dù không bị vấp vào vật gì.
Tôi kết luận áp huyết của cụ quá thấp đường huyết qúa thấp lại không ăn uống gì, người gầy ốm, nếu nằm tiếp ở bệnh viện mà cứ hạ áp huyết hạ đường nữa có thể chết, thì tôi không can thiệp được, mà phải xin cho bà xuất viện về nhà mới chữa theo ý mình được.. Cô con gái ra văn phòng xin cho cụ về, tôi chờ và theo cô gái ra xe đưa mẹ cô và tôi rời khỏi bệnh viện, tôi nói trước khi về nhà hãy ghé qua tiệm phở cho cụ ăn phở uống coca cho có sức rối về nhà tôi sẽ hướng dẫn cụ tập đi. Sau khi về nhà tôi hướng dẫn cụ cách đi bằng khung xe tập di, và bỏ hẳn thuốc tiểu đường và áp huyết, thay vào mỗi ngày cho cụ ăn phở, nấu thức ăn bổ máu, uống thuốc nước B12, cho đến khi cụ tăng cân, ăn được nhiều, tiếng nói khỏe, đi đứng vững chắc không cần đi bằng khung xe thì khỏe.
Một tháng sau tôi gôi điện thoại hỏi thăm sức khỏe của bà thì con gái bà trả lời : Mẹ con khỏe đã đi về Việt Nam chơi rồi.
Câu chuyện này chúng ta rút ra được bài học gì ?
Vì tin tưởng tây y phải dùng thuốc suốt đời nên không cần mua máy đo áp huyết máy đo đường để theo dõi làm gì, lại sợ châm kim nặn máu nữa, nên cứ uống suốt đời để khỏi bệnh áp huyết và tiểu đường là sự sai lầm của nhiều người, vì không biết từ bệnh tâm thu, tâm trương, nhịp tim cao, thừa là bệnh thực chứng, khi dùng thuốc 3 số áp huyết xuống tới bệnh hư chứng là mất khí lực, mất máu, hạ nhịp tim là mất đường, sức khỏe đang từ sức khỏe của ngươi lớn trở thành người lớn gầy ốm có sức khỏe còn tệ hơn đứa trẻ thiếu nhi làm sao mà không bị bệnh nặng cho được.

2-Chức năng hấp thụ và chuyển hóa thức ăn thuốc uống của bao tử mỗi người khác nhau gọi là cơ địa.

a-Chức năng chuyển hóa của bao tử thế nào là tốt 100%.
Khi chúng ta đói bụng thì bao tử rỗng, thể tích bao tử nhỏ, thì đo áp huyết trước khi ăn sẽ thấp trong tiêu chuẩn tuổi,
Thí dụ tuổi trung niên có áp huyết tiêu chuẩn là :
120-130/70-80mmHg 70-75
Khi đói tâm thu bao tử thấp là 120mmHg, sau khi ăn no 30 phút đo lại tâm thu cao tối đa là 130mmHg.
Sau 4 tiếng đồng hồ thức ăn trong bao tử được hấp thụ và chuyển hóa hết xuống ruột non để biến thành máu, thì bao tử trống trở lại tâm thu thấp 120mmHg.
Đó là chức năng của bao tử chuyển hóa thuận xuống ruột 100%

b-Giai đoạn chuyển hóa thức ăn của bao tử :
Cơ thể cần chất dinh dưỡng từ thức ăn như protein, chất béo, carbohydrate, chất xơ, v.v
để cung cấp năng lượng cho các cơ chế thiết yếu bao gồm tăng trưởng và phục hồi tế bào. Do đó, hệ tiêu hóa rất quan trọng đóng vai trò chính trong việc phân hủy thức ăn và chất lỏng thành các chất dinh dưỡng nhỏ hơn. Cuối cùng, mục tiêu là chiết xuất càng nhiều chất dinh dưỡng càng tốt để cơ thể có thể sử dụng chúng để tạo năng lượng.
Các cơ quan chính tham gia vào quá trình tiêu hóa là : Miệng, Thực quản, Dạ dày, Ruột non, Ruột già,và cơ quan trợ giúp là gan, mật, tuyến tụy.
Gan, túi mật và tuyến tụy được gọi là các cơ quan phụ trợ của hệ tiêu hóa.
Thức ăn vào miệng phải nhai, để răng cần nghiền nát thức ăn, để nước bọt cung cấp enzyme amylase phân hủy carbohydrate chuyển thành hỗn hợp những miếng viên mềm mịn nhỏ gọi là bolus cho cổ họng dễ nuốt, nên đủ răng và nhai kỹ cũng quan trong, từ cổ họng đến bao tử là ống thực quản có những cơ thắt phía trên đẩy chúng xuống cơ thắt dưới của ống thực quản, chuyển động liên tục đẩy thức ăn vào bao tử.
Khi thức ăn xuống bao tử thì bao tử bắt đầu tiết dịch vị gồm acid clohydric và enzyme tiếp tục phân hủy các viên thức ăn này thành chất lỏng có độ pH 5 tiết ra men tiêu hóa pepsin để làm tiêu hóa protein và cơ co bóp bao tử chuyển động khuấy trộn chúng cùng lúc để phân hủy hoàn toàn trở thành dưỡng trấp là chất lỏng di xuống ruột non, là một ống dài cũng có loại enzyme từ tuyến tụy như amylase, lipase và protease tác động lên carbohydrate, chất béo, protein, rồ enzyme từ gan mật phân hủy chất béo, khi thức ăn trở thành lỏng dễ hấp thụ qua thành ruột non gồm glucose, acid amin và chất béo đi vào máu, theo máu đi phân phối đến các tế bào trong cơ thể.
Nhửng chất cặn bã, chất xơ còn lại trong ruột non bị đẩy xuống ruột già có các enzyme tiếp tục lọc cân bằng lại nước trong quá trình điện giải và các vi khuẩn làm cô đặc lại chất bã để hình thành phân bên trong trực tràng để đào thải ra ngoài.
Thời gian chuyển hóa thức ăn từ bao tử xuống ruột non mất từ 2-4 tiếng, ruột non tiếp tục lọc chất bổ và hấp thụ chất bổ đi vào máu từ 4-6 tiếng, ruột già biến cặn bã thành phân từ 12-48 tiếng
c-Những nguyên nhân rối loạn về chuyển hóa thức ăn gây ra bệnh :
Các chuyên gia y tế chia chúng thành hai loại: rối loạn là rối loạn hữu cơ và chức năng cơ học..

-Nguyên nhân thứ nhất : Thiếu đường giúp các cơ tiêu hóa co bóp.
Rối loạn hữu cơ là ngăn không cho hệ tiêu hóa hoạt động bình thường, rối loạn chức năng cơ học là cấu trúc hệ tiêu hóa bình thường không trục trặc hay tổn thương, nhưng các cơ co bóp của thực quản, của bao tử và ruột bị co rút cứng nguyên nhân do thiếu đường thì không ai biết, chính là tây y hạ tiêu chuẩn đường huyết , cho nên hiện tại nếu tây y xét nghiệm máu kết luận đường huyết tốt không bị bệnh tiểu đường thì chính là cơ thể đang thiếu đường trầm trọng, khi so sánh tiêu chuẩn không bị tiểu đường của cơ quan Y Tế Thế Giới năm 1979 từ 8-11mmol/ l= 140-200mg/dl so với tiêu chuẩn hiện tại không bị tiểu đường từ 3.9-5.9mmol/l=70-99mg/dl.
Như vậy ai có đường huyết thấp dưới 8 mmol/l=140mg/dl thì không có đủ đường cho các cơ co bóp thức ăn chuyển hóa

-Nguyên nhân thứ hai : Trào ngược thực quản
Đông y nói thèm nhỏ dãi :
Vì khi ngửi thấy mùi thơm của thức ăn, mà thèm nhỏ dãi là tuyến tụy đủ đường làm co bóp tuyến hạch tiêu hóa ở 2 bên mang tai hoạt động, người nào chán ăn, không biết mùi thơm ngon của thức ăn, tuyến nước dãi không hoạt động, khi thức ăn vào miệng không muốn nhai, chỉ nuốt cho trôi vào thực quản, thực quản không co bóp thức ăn muốn nôn ra ngoài, hay bị nghẹn, thức ăn vào bao tử không co bóp, thức ăn nằm im lâu trong bao tử, bị acid trong bao tử làm thức ăn lên men, làm tăng áp huyết, khí ga xông lên cổ họng làm tăng áp huyết, gọi là trào ngược thực quản, có nghĩa thức ăn không được chuyển hóa xuống ruột, mà chuyển hóa lên họng, thì gọi là chuyển hóa nghịch.
Theo dõi áp huyết và đường huyết từ trước khi ăn, sau khi ăn 30 phút, sau 4 tiếng đo lại để so sánh thấy ngay nguyên nhân tại sao, như
Trước khi ăn buổi sáng bụng trống áp huyết tay trái thấp theo tiêu chuẩn tuổi là 120/70mmHg nhịp mạch 70, đường huyết 140mg/dl, là áp huyết tốt
Sau khi ăn 30 phút, đo lại , bao tử đầy thức ăn thì phải cao 100% như
130/80mmHg nhịp mạnh 80 là chuyển hóa thuận, nhưng sau khi ăn áp huyết không tăng lại giảm thấp như 110/65mmHg mạch 65 là áp huyết tụt xuống hư chứng và đường huyết có 100mg/dl.
Sau 4 tiếng thay vì thức ăn phải chuyển hóa hết, thì nó không chuyển hóa bị lên men chương sình làm bao tử tăng thể tích tâm thu và tâm trương bao tử lên cao như 160/90mmHg đường huyết 130mg/dl, vì nước của thức ăn đem theo đường vào máu làm tăng đường tứ 100 lên 130mg/dl.

-Hậu quả của trào ngược thực quản :
Trong khi nghiên cứu áp huyết của tây y nói sau khi ăn 4 tiếng thí áp huyết xuống thấp, trường hợp này ngược lại nó không thấp mà lại tăng cao là chuyển hóa nghịch 100% lâu ngày làm tăng áp huyết, và gây ra bướu cổ, cường giáp, viêm họng.
Đến trước bữa ăn kế tiếp thay vì bao tử trống thức ăn thì tâm trương thấp, nhưng trước khi ăn bữa kế tiếp trong bao tử vẫn cón thức ăn cũ, tâm thu vẫn cao 160mmHg, tâm trương vẫn cao là còn thức ăn, thì đến bữa không muốn ăn, hay chỉ ăn được lượng thức ăn ít, thì thức ăn cũ không biến thành lỏng để chuyển thành máu, nên bữa ăn bị trào ngược thì thức ăn không thành máu mà thành mỡ, thức ăn mới vào ít thì bao tử đã đầy nên đo áp huyết tâm thu thay vì sau khi ăn phải cao, thì nó lại trở thành thấp như 120/65mmHg nhịp mạch 100, đường huyết 140mg/dl, nhiệt độ trán 35 độ C, nhiệt độ đầu ngón tay út trái 34 độ C, đàu ngón chân út trái súng bắn nhiệt kế chỉ low.
Giải thích lượng thức ăn mới ít thì không đủ đường, nhưng thức ăn mới đẩy thức ăn cũ xuống ruột thì đường trong thức ăn cũ vào máu làm tăng đường huyết, nhưng vì thức ăn cũ không được co bóp nát để chuyển thành máu, nên cơ thể bị mất máu, nên nhịp tim cao mà đường huyết thấp, nhiệt độ thấp là cơ thể mất máu, nên áp huyết đo được
120/65mmHg nhịp mạch 100, đường huyết 140mg/dl, nhiệt độ trán 35 độ C, nhiệt độ
đầu ngón tay út trái 34 độ C tây y sẽ nói là tốt, chỉ có nhịp tim hơi cao là sai, đối với môn học Khí Công Y Đạo thì đây là áp huyết giả do thiếu máu, thiếu đường, thiếu nhiệt độ, nên đổi sang áp huyết thật như người khỏe mạnh có nhịp tim 75, thì áp huyết 120/65mmHg 75 là áp huyết của người khỏe ỏ tuổi trung niên, nhưng vì là áp huyết giả có nhịp tim cao 100, đã làm nhịp nhanh hơn 25 số, thì lấy tâm thu 120 trừ cho 25 thì tâm thu thật là 95, tâm trương mới lấy tâm trương cũ 65 trừ cho một nửa 25 chỉ còn 42mmHg thì áp huyết thật là 95/42mmHg 75 là áp huyết thuộc hư chúng cấp độ 2.

-Hội chứng ruột kích thích :
Ngoài ra thức ăn cũ còn thô chưa thành lỏng khi xuống ruột gây ra bệnh hội chứng ruột kích thích, thì thức ăn sinh ra vi khuẩn.
Những người mắc IBS (Irritable bowel syndrome=hội chứng ruột kích thích) có nhiều khả năng đã trải qua các sự kiện đau thương trong cuộc sống hoặc mắc tình trạng sức khỏe tâm thần, cũng có thể phát triển sau khi bị nhiễm trùng xảy ra khi vi khuẩn từ ruột già di chuyển đến ruột non, gây ra các triệu chứng như : đầy hơi, tiêu chảy, táo bón, chất nhầy màu trắng trong phân, đi ngoài không hết.

-Bệnh Celiac không hấp tụ gluten làm hỏng ruột non không biến thức ăn thành máu được
Tiếp theo gây ra bệnh là không hấp thụ gluten là loại protein có trong lúa mì và ngũ cốc khiến hệ miễn dịch tấn công gluten trong ruột non làm hỏng chức năng ruột non thì ruột non không còn đủ enzyme chuyển dưỡng trấp thức ăn thành máu
Các triệu chứng của bệnh Celiac có thể bao gồm :
Tiêu chảy kéo dài, táo bón, phân nhợt nhạt, có mùi hôi hơn bình thường và nổi, đau bụng, chướng bụng, đầy hơi, buồn nôn, nôn mửa,
Theo thời gian, bệnh Celiac không được điều trị có thể dẫn đến các biến chứng như:
Suy dinh dưỡng, xương mềm, các vấn đề liên quan đến hệ thần kinh, các vấn đề về sinh sản,

-Bệnh Crohn làm viêm ruột già, ung thư ruột.
Khi thức ăn cũ xuống ruột già gây ra bệnh Crohn làm viêm ruột già có dấu hiệu đau bụng tiêu chảy, mệt mỏi, giảm cân, suy dinh dưỡng, làm mòn mô ruột gây đau đớn, suy nhược,, xuất huyết gây ra biến chứng viêm lóet đại tràng đe dọa tinh mạng...

-Bệnh UCviêm loét đại tràng (Ulcerative colitis)
Viêm loét đại tràng chỉ ảnh hưởng đến lớp niêm mạc (lớp ngoài cùng của thành ruột).

-Bệnh Trào ngược acid GERD (Gastroesophageal reflux disease xảy ra khi thức ăn trong dạ dày của một người trào ngược trở lại thực quản hoặc ống dẫn thức ăn. Nếu tình trạng này xảy ra thường xuyên, một người có thể bị GERD, đây là tình trạng bệnh lý lâu dài, pH nước bọt thường xuyên là acid thì các tế bào trong cơ thể sẽ trở thành tế bào ung thư.
Dấu hiệu bệnh trào ngược acid :
Ợ nóng, Trào ngược acid, Đau ngực, Buồn nôn, Đau khi nuốt, khó nuốt, sụt cân không rõ nguyên nhân, nôn do trào ngược dạ dày thực quản,

-Cường giáp, bướu cổ
.Tất cả các bệnh trên nguyên nhân mọi người theo tây y kiêng sợ đường cao là cơ hội gây ra hậu quả nhiều bệnh sẽ được các bác sĩ săn sóc tận tình cho uống nhiều thuốc chữa được nhiều bệnh cho mau đi gặp ông bà theo đúng quy trình..

-Bệnh sỏi mật
Túi mật là một túi nhỏ chứa mật, cơ thể sử dụng mật trong quá trình tiêu hóa. Sỏi mật là những viên sỏi nhỏ hình thành trong túi mật.
Trong hầu hết các trường hợp, một người có thể không biết rằng họ bị sỏi mật vì chúng thường không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Tuy nhiên, mọi người có thể gặp các triệu chứng nếu sỏi mật hình thành trước một lỗ mở trong túi mật.

Các triệu chứng có thể bao gồm:
Dau dai dẳng dưới xương sườn, ở bên phải cơ thể, vàng da, sốt cao hoặc ớn lạnh, buồn nôn, nôn mửa, đổ mồ hôi, đau bụng kéo dài hơn 8 giờ,
Nếu có bệnh túi mật dặc cứng sắp hình thành sỏi mật thì nhịp mạch đo áp huyết tay phải có nhịp mạch thấp dưới 60 là chỉ gan bị hàn là gan nhiễm mỡ, trong khi nhịp mạch đo áp huyết bên tay trái là bao tử vẫn bình thường 70-80 còn bên gan thiếu đường nhiệt lượng

-BệnhAchalasia
Là tên gọi một rối loạn hiếm gặp trong đó các dây thần kinh bị tổn thương ở thực quản ngăn không cho thực phẩm đi vào dạ dày. Các cơ ở đầu dưới của thực quản không cho phép thức ăn đi vào dạ dày. Các triệu chứng bao gồm khó nuốt, ợ nóng và đau ngực.

-Bệnh Ménétrier
Bệnh Ménétrier xảy ra khi niêm mạc lót dạ dày phát triển quá mức và dẫn đến các nếp gấp dạ dày lớn.
Một số triệu chứng như :
Đau ở vùng giữa trên của dạ dày, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy,

3-Chuyển hóa thức ăn nhanh và chậm cũng gây ra bệnh.

a-Chuyển hóa nhanh do đường huyết cao, làm tăng cả 3 số đo áp huyết :
Là bệnh 3 nhiều, dư thừa đường làm các cơ co bóp nhnah, nên tim đập nhanh làm tăng nhiệt, cơ thực quản co bóp đẩy thức ăn nhanh xuống bao tử, bao tử co bóp nhanh đẩy xuống ruột mà chưa kịp nghiền nát thức ăn thành lỏng nên ruột non không hấp thụ được chất bổ biến thành máu, nên tế bào vẫn đói lại phải ăn nhiều mà vẫn không có kết quả , nên cơ thể gầy dần.
Nếu do áp huyết trước và sau khi ăn đều cao như 150-160mmHg như thực chứng cấp độ 1-2 tuy không bị tai biến hay đột qụy, nhưng nhịp tim cao đường huyết cao 300mg/dl, nhiệt độ cao 37-38 độ C, cổ khô khát, uống nước nhiều, tiểu nhiều, không gây ra bệnh trào ngược, nhưng không hấp thụ được thức ăn thành máu.

b-Chuyển hóa chậm :
Do cơ co bóp yếu, thì tim đập chậm, cơ co nuốt của thực quản yếu không lùa được thức ăn xuống bao tử, cơ bao tử co bóp yếu không làm nát hết được thức ăn, nên thức ăn còn giữ lại trong đáy bao tử một phần, một phần đẩy xuống ruột non, ruột non chỉ rút được ít đưỡng trấp thành máu, rồi thức ăn còn bị đẩy xuống ruột già thành nhiều phân.
Nếu kiểm chứng bằng cách đo áp huyết sẽ có áp huyết thấp, nhịp tim thấp, thuộc hư chứng cấp độ 1-2, nhiệt độ trán là nhiệt độ trong bao tử thấp dưới 35 độ C, dầu ngón tay út trái thấp chỉ nhiệt độ của kinh tâm thuộc tim hàn cũng dưới 35 độ C, máu sẽ hơi đặc tốc độ bơm máu chậm, nhiệt độ đầu ngón chân út trái thấp hàn lạnh chỉ nhiệt dộ thấp low, là nhiệt độ của các trung khu thần kinh não chỉ huy các chức năng hoạt động của tạng phủ như thần kinh giao cảm và phản xạ yếu, đường huyết thiếu thấp dưới 5mmol/l=90mg/dl, hay đường huyết cao 200-300mg/dl mà nhiệt độ thấp là cơ thể bị mất thêm đường rút từ cơ bắp mới bị sụt cân làm cơ thể mất đường trầm trọng, lúc đó sưng tuyến giáp gọi là suy tuyến giáp, khác với cường giáp nguyên nhân do thức ăn chuyển hóa nghịch.

c-Hậu quả tùy theo mức độ chuyển hóa nhanh hay chậm bao nhiêu phần trăm.
Áp huyết đo bên tay trái tây y cho là áp huyết của tim, nhưng chính áp huyết của tim lệ thuộc vào áp huyết của bao tử do thức ăn chuyển hóa tốt hay xấu.

-Nếu chuyển hóa nghịch là đo áp huyết tay trái trước ăn cao, sau ăn thấp cách nhau 1mmHg là thức ăn chuyển hóa nghịch 10%, như tâm thu trước ăn 140mmHg, sau ăn 139mmHg, thì hậu quả chỉ bị ợ hơi ít, cách nhau 2 số như trước ăn 140mmHg sau ăn 138mmHg hậu quả bi ợ hơ nhiều, cách nhau cao hơn thì bị nấc cục, cao hơn nữa thì ợ chua, cao nữa trào ngược thức ăn, chênh lệch nhau 100% thì nôn ói thức ăn, sưng tuyến giáp bướu cổ, thì thức ăn không xuống ruột tạo máu, cơ thề thiếu máu gầy dần, đi qua các giai đoạn bệnh kể trên.
-Nếu chuyển hóa thuận như trước ăn tâm thu tay trái 120mmHg sau ăn tâm thu tay trái 121mmHg thì cơ thể hấp thụ chuyển thức ăn thành máu được 10%. cách nhau nhiều thì thức ăn được chuyển hóa thành máu nhiều, tùy theo đủ đường huyết là glucose cộng với protein trong thức ăn biến thành máu, nên tiêu chuẩn đường huyết sau khi ăn theo cơ quan Y Tế Thế Giới năm 1979 đường huyết phải 11mmol/l=200mg/dl, nhưng ngày nay không áp dụng tiêu chuẩn đường huyết no, mà chỉ có một tiêu chuẩn thấp từ 3.9-5.9mmol/l=70-99mg/dl để không có đủ đường chuyển hóa hết thức ăn thành máu, nên thức ăn không thể chuyển hóa thuận 100% được.

d-Nguyên nhân bao tử bị nghẹt môn vị
-Tại sao biết môn vị bị nghẹt :
Nếu thức ăn cũ trong bao tử không đủ đường cho bao tử co bóp thì còn lại nhiều bolus là những viên thức ăn trong bao tử cứ tích lũy trong hang vị là đáy bao tử, lâu ngày gọi là bã thức cứng dần, đầy dần cho đến khi lọt vào môn vị là cơ co bóp của bao tử và ruột non bị kẹt chặn mất lối xuống của thức ăn các bữa kế tiếp, giống như cái phễu bi nghẹt nước trong phễu không chảy xuống được, lúc đó lại trở thành trào ngược nôn ói ra thưc ăn, bao tử lúc nào cũng đầy, mặc dù đói bụng thèm ăn mà cứ ăn vào ói ra, nên thức ăn không xuống được ruột non để được chuyển hóa tiếp tục thành máu làm cơ thể thiếu máu, suy dinh đường gầy ốm sụt cân dần dẫn đến loét bao tử, ung thư bao tử, các tế bào đói thiếu đường thiếu máu, thiếu oxy sống trong môi trường máu có acid ph 5 sẽ trở thành tế bào ung thư, nguyên nhân thiếu đường, nếu đủ đường theo tiêu chuẩn no là 200mg/dl mới đủ chuyển hóa thức ăn 100%. Nguyên nhân thiếu dường không phải do bệnh nhân, mà do các bác sĩ hù dọa phải kiêng đường, kiêng cơm, phải ăn nhiều rau củ quả là đường không có calo, phải giữ đường trong tiêu chuẩn thấp từ 3.9-5.9mmol/l để mình bị nhiều bệnh do hậu quả thiếu đường hay mất đường sụt cân, để các bác sĩ có cơ hội săn sóc đầy đủ các bệnh biến chứng cho mình nhiều hơn để cuối cùng đi vào đúng quy trình chuyển bệnh nhân xuống tuyến dưới cho diêm vương chữa tiếp.

Muốn phá vỡ các viên thức ăn bolus cứng phải cho xổ xúc bã thức ăn cho nát ra cho lọt xuống ruột thành phân tống ra khỏi cơ thể thì phải tùy theo áp huyết cao, thì dùng 2 thìa cà phê muối đắng uống với 250cc nước ấm, 2 giờ sau đi đại tiện xong thì đường huyết tụt thấp và cơ thể mất nước phải uống bù nước ấm nóng pha 5 thìa cà phê đường cát vàng, còn nếu áp huyết thấp, thiếu đường thì pha 1 thìa cà phê bột baking soda với 5 thìa đường , cũng khoảng 2-3 giờ sau mới đi đại tiện được.

Cách thử đường huyết để biết bao tử còn bị nghẹt hay hết nghẹt, bằng cách đo đường huyết trước và sau khi uống thêm đường, như trước khi uống đường đo đường huyết là 6mmol/l, sau khi uống thêm 10 thìa đường đo đường huyết vẫn là 6mmol/l=100mg/dl chứng tỏ đường mới uống vào không lọt xuống ruột vào máu, vẫn còn nằm trong bao tử, do cục bã thức ăn chặn lối thông xuống ruột. Sau khi xổ xong thử lại uống 10 thìa đường, rồi đo lại thấy đường huyết tăng lên 200mg/dl là đã thông 100%, nếu đo lại đường huyết chỉ có 150mg/dl thì chỉ mới thông được 1/2, vì mỗi thìa cà phê đường tăng 10mg/dl, thì ngày hôm sao, sau khi ăn phải thông tiếp.

e-Không chuyển hóa thức ăn thì chết.
Nếu có người trước khi ăn và sau khi ăn áp huyết giống nhau như tay trái trước ăn 125/75mmHg 65, sau ăn 125/70mmHg 65, đường huyết 5mmol/l=90mg/dl bác sĩ khen tốt quá. Có bệnh nhân đến phòng mạch của tôi , nhờ tôi chữa bệnh vì thấy cơ thể mệt mỏi, gầy ốm sụt cân, có số áp huyết như trên. Tôi nói : Đây là áp huyết chết không chuyển hóa do thiếu đường. Bệnh nhân nói : Thế mà hôm qua thằng bạn bác sĩ nói tôi có áp huyết tốt lắm. Tôi ấn tay vào bao tử thì bị chai cứng, tôi khuyên vào bệnh viện cấp cứu ngay, bệnh viện bơm thức ăn vào bụng cũng không chuyển hóa, mà đo đường từ thức ăn tăng thêm lên 7mmol/l phải tiêm insulin bệnh nhân hôn mê tử vong luôn trong đêm.

g-Uống nhiều đường mà đường không tăng nhiều thì đường đi đâu.
Trường hợp này thường gặp, chỉ riêng Hội Tim Mạch Hoa Kỳ cho biết muốn bảo vệ tim bơm máu khỏe, giữ cho nhịp tim và nhiệt độ đúng tiêu chuẩn thì nhu cầu đường cho tim hoạt động tốt 24/24 thì tim cần 9 thìa cà phê đường cát vàng, mà chúng ta kiêng đường trong khi tim vẫn cần đường để duy trì sự sống cho mình, một năm tim tiêu thụ 9 thìa x 365 ngày=3285 thìa cà phê đường. Vậy khi mình uống 10 thìa, 20 thìa, 30 thìa, 40 thìa, 50 thìa để trả nợ thì làm sao mà đủ, nhưng dù sao khi trả nợ vẫn thấy có kết qủa là nó đi đâu nhờ đo áp huyết 2 tay, 2 chân, đo nhiệt độ, đường huyết cứ sau mỗi lúc tập, se biết nó đi đâu.
Thí dụ một người đo áp huyết 2 chân có kết quả như :
Chân trái 190/116mmHg 86, chân phải 187/116mmHg 85 đường huyết 98mg/dl, nhiệt độ trán 36.3 độ C, đầu ngón tay út súng bắn nhiệt kế chỉ low, đầu ngón chân út chỉ low.
Giải thích :
Tâm thu ở chân cao 190, và 187 mmHg là khí lực tắc ở động mạch háng
Tâm trương cao 116 hai chân là phình tĩnh mạch chân
đường huyết thấp 98mg/dl là mạch hàn là nội hàn, nhịp tim hơi cao là thiếu máu.
Áp huyết này đối với người nữ thuộc về bệnh tử cung ứ huyết là ung thư tử cung, ở người nam là đang sưng tuyến tiền liệt làm tiểu nhiều lần ít môt, sẽ dẫn đến phải lọc thận nếu creatinin cao hay chỉ số PSA cao trên 10 là ung thư tuyến tiền liệt, nguyên nhân tuyến tiền liệt hàn do thiếu đường. .
Sau khi bệnh nhân này ăn chè bà cốt, bó bắp chân di cầu thang 1 bậc, trong khi tập hơi mệt phải uống thêm 5-10 thìa đường cát vàng tập tiếp, hơi mệt uống thêm đường tập tiếp cho đến khi người nóng, áp huyết chân giảm xuống tiêu chuẩn tâm thu hai chân 140-150
mmHg, nhiệt độ 5 đầu ngón chân trên 36 độ C thì khỏi bệnh. Cuối cùng bệnh nhân uống tổng cộng 50 thìa cà phê đường cát vàng. Lại sợ nhiều đường quá sẽ nguy hiểm nên ngưng tập đo lại áp huyết, đường huyết, nhiệt độ có kết quả như sau :
Áp huyết chân trái 148/83mmHg 71, chân phải 153/81mmHg 68, nhưng không đo đường huyết, còn nhiệt độ trán 36.1 độ C, ngón tay út trái 36.2 độ C, ngón chân út trái low.
Như vậy uống đường thêm thì đường đã làm hạ áp huyết tâm thu, tâm trương, nhịp tim, nhưng nhiệt độ chân chưa tăng lên 36 độ C thì tuyến tiền liệt vẫn cón thiếu dường nên nó sẽ sưng phình lên lại nếu không chịu khó uống thêm đường để tập mỗi ngày để phục hồi chức năng thận và bàng quang. Bệnh nhân này 4 ngày sau đo lại áp huyết có dấu hiệu lại sưng phình tuyến tiền liệt khi nhìn vào số đo áp huyết mới ở 2 chân như sau :


Chân trái 211/128mmHg, 91, chân phải 212/120mmHg 82, nhiệt độ trán 36.3 độ C, ngón tay út trái 34.3 độ C, ngón chân út trái 33.4 độ C, trước kia không có độ , đường huyết 128 mg/dl do ăn chè bà cốt, đường lên chưa đủ đường sau khi ăn phải 200mg/dl, đây là áp huyết do không tập, kết quả tâm trương cao là ứ nước, có nghĩa thận hàn lạnh, thừa nước là thủy sẽ khắc hỏa là làm mất nhiệt lượng cho tim nên có áp huyết ở tay là ;
tay trái 167/96mmHg 91, tay phải 156/93mmHg 90, đường huyết 128mg/dl là thiếu đường cho tim hoạt động phải từ 140mg/dl trở lên, nhiệt độ tay phải 36.5 độ C, tim không đủ đường, không đủ nhiệt độ mà nhịp tim cao là nội nhiệt là thiếu máu. Bệnh tình còn nặng hơn trước do thiếu đường và lười tập, lười do áp huyết, đường, nhiệt độ theo dõi mình ăn uống, có đúng tiêu chuẩn tốt không, nếu xấu phải sửa lại, nhiều người biết có khuyết điểm nhưng không sửa, vì vẫn không hiểu cứ mỗi giờ đường huyết tụt thấp không đủ đường giúp tiêu hóa thức ăn thì áp huyết tâm thu sẽ tăng, hoặc tâm thu không tăng chỉ tăng tâm trương.

h-Áp huyết kẹt là gì .
Ở Việt Nam, bác sĩ có gọi một tên bệnh là áp huyết kẹt, tôi hỏi kẹt cái gì, được trả lờ áp huyết tâm thu bình thường như 130mmHg, nhưng tâm trương cao bằng tâm thu 130mmHg.
Như trong bái nghiên cứu của các bác sĩ nước ngoài nói rằng 1 trong 2 số tâm thu hay tâm trương cao đều cho dùng thuốc hạ áp huyết suốt đời, theo môn Khí Công Y Đạo là sai, tâm trương bên tay trái chỉ lượng thức ăn chưa đươc biến đổi thành máu, còn nằm trong bao tử, khiến bụng to căng tức, làm mệt tim, chứng tỏ thức ăn thiếu đường cho bao tử co bóp. Trong môn học Khí Công Y Đạo từng có kinh nghiệm kết luận rằng thiếu đường chuyển hóa thức ăn mà tâm thu cao trên 190mmHg sẽ bị tai biến tê liệt hay vỡ mạch máu não xuất huyết não sẽ tử vong, còn tâm trương cao trên 120mmHg sẽ vỡ tim đột quỵ tử vong, như vậy áp huyết kẹt do thức ăn không tiêu, chỉ cần dùng ngón tay bấm vào huyệt Trung Quản cùng lúc với huyệt Khí Hải, ấn đè sâu giữ cho lâu, khi bụng sôi ọc ọc là thức ăn trong bao tử xuống ruội tự nhiên áp huyết xuống bình thường, không cần uống thuốc.

i-Trẻ em ăn nhiều nhãn làm tăng áp huyết hại não.
Có bà mẹ chăm sóc một bé gái 5 tuổi, khi đang bận nấu ăn bữa cơm chiều, để bé chơi một mình, bé thấy có rổ đựng trái nhãn bé ăn hết mà mẹ bé không biết, đến đêm bé bị sốt cao 42 độ C phải đi bệnh viện cấp cứu 3 tuần bệnh không giảm lại tăng khi khám thần kinh não các mach đều căng, đầu nóng, cho thở oxy, bụng căng cứng, mặt tím bầm, bác sĩ quyết định rút ống thở vào 12 giờ trưa. Người nhà bé chạy đến phòng mạch của tôi lúc 10 giờ nhờ vào bệnh viện cấp cứu cho bé, cùng lúc đem theo nhiều quần áo cho bé chuẩn bị nếu bé bị rút ống thì những quần áo này đem tẩm niệm cho bé.
Khi tôi vào phòng cấp cứu riêng của bé vẫn có 2 bác sĩ thường trực theo dõi điện não đồ, tôi xin phép bác sĩ được thăm bé, tôi thấy bé còn thở, mặt đỏ tím, sờ bụng căng, tôi xin phép được sờ bụng bé, thật ra tôi ấn đè huyệt Trung Quản và Khí Hải tự nhiên bụng bé sôi ọc ọc rồi bé tuôn phân ra hậu môn ào ào và khỏi bệnh, tôi hỏi mẹ bé ăn gì mà bị bón không đi cầu được làm sốt, khiến cho các bác sĩ chẩn đoán sốt sai lầm thành viêm màng
não Nhật Bản. Sau đó bé được chuyển sang khoa nhi, bác sĩ khoa nhi khám xong nói để cháu ở lại 2 ngày để phục hồi sức khỏe rồi cho về. Sau 2 ngày thì bé không còn ở khoa nhi lại bị chuyển đến phòng theo dõi điện não đồ, vì vô tình bố mẹ bé bị ký môt bản tình nguyện cho bé làm người thí nghiệm về căn bệnh sốt viêm não mà bố mẹ không biết chữ ngoại quốc, trong giấy ghi nếu họ tìm được cách chữa này thì bé khỏe và cả thế giới được nhờ, nếu thất bại rủi ro bé chết họ sẽ không chịu trách nhiệm. Cuối cùng 2 năm sau bé trở thành người tàn tật chân tay co quắp cong vẹo cột sống, cơ thể không phát triển ăn uống qua bụng, không dứng hay đi, không nói được chỉ bị sốt táo bón do ăn nhãn mà bị chữa sai oan uổng. Nếu cha mẹ nói thật do ăn nhãn có khi nuốt cả hột, vì nhãn rất ngọt, nhiều đường, tính nhiệt, làm cho áp huyết của bé tăng cao thành thực chứng bị sốt và táo bón, thì hướng chữa là hạ sốt và cho xổ đi cầu thì khỏi

k-Có nên tin bác sĩ chuyên khoa đầu ngành không
Bệnh nhân nũ 59 tuổi bị ăn không tiêu mệt tim khó thở, phài vào bệnh viện lo lót được bác sĩ đầu ngành khám nghiệm, đo đường huyết 5.9mmol/l, bác sĩ bảo sắp bị tiểu đường, và cho dùng thuốc hạ đường, nằm viện được 3 tuần mỗi ngày mỗi mệt mỏi khó thở hơn, người nhà điện cho tôi hỏi phải chữa làm sao. Tôi hỏi bác sĩ đầu ngành này già hay trẻ, họ ngạc nhiên hỏi, già hay trẻ có gì khác biệt. Tôi trả lời bác sĩ trẻ là học y khoa theo chương trình mới ai có đường huyết cao hơn 6mmol/l là bệnh tiểu đường là tiêu chuẩn sai. Còn bác sĩ lớn tuổi thì chương trình y khoa trước năm 1975 đều học tiêu chuẩn đường huyết cao 200mg/dl không bị bệnh tiểu đường. Người nhà bệnh nhân này nói bác sĩ này lớn tuổi mà ông nói đường cao hơn 6mmol/l là bị bệnh tiểu đường rồi. Tôi kết luận bác sĩ đầu ngành này là đi mua bằng rồi chứ không phải bác sĩ học chương trình cũ.
Không hiểu các bác sĩ giáo sư đầu ngành ở Việt Nam đã có kinh nghiệm câu nói này của Giáo sư Bác sĩ Pham Hiếu Liêm giảng dạy khoa lão hóa tại các trường y Hoa Kỳ nói 2 câu :
Đường huyết cao dưới 200mg/dl không có phải bệnh tiểu đường.
Đường càng cao không chết, chỉ có đường huyết thấp mới chết

4-Chữa bệnh theo cơ chế đông tây y kết hợp gọi là Y Học Bổ Sung.
Tất cả các bệnh tật đều do ăn uống sai lầm, dùng thuốc sai lầm làm thay đổi tinh-khí-thần mà ra. 3 yếu tố này của tây y và đông y đều trùng hợp khi khám bệnh bằng máy đo áp huyết, nhưng khác nhau cách chữa về sự chuyển hóa.
Như trên sự chuyển hóa thức ăn tự nhiên từ miệng vào đầu của hệ tiêu hóa và ra điểm cuối cùng của hệ tiêu hóa là hậu môn theo chức năng chuyển động của bộ máy cơ học là co bóp, giống như một nhà máy sản xuất sản phẩm theo hệ thồng dây chuyền từ sản phẩm thô đến thành phẩm theo mỗi công đoạn làm những công việc khác nhau, hỏng công đoạn nào chữa vào công đoạn đó.
Khác với hệ thống ngũ hành tạng phủ của đông y, là thức ăn trước khi vào miệng đo áp huyết tay trái là đo chức năng hoạt động của bao tử, sau khi thức ăn vào bao tử, đo lại áp huyết thấy sai, thì các công đoạn sau đều sai.
Vì nếu chức năng bao tử hư chứng thì con của bao từ là phế và đại tràng cũng hư chứng thì hậu quả có dấu hiệu bệnh của phổi và đại trường, thì con cụa phế là thận và bàng quang cũng hư chứng cũng có dấu hiệu bệnh của thận và bàng quang, thì con của thân là gan cũng hư chứng, gan hư chứng cũng có dấu hiệu bệnh của gan và con của nó là tim và tiểu trường cũng hư chứng thì cũng có dấu hiệu bệnh của tim và ruột non, làm hư cả một vóng ngũ hành.
Ngược lại thức ăn vào bao tử thực chứng thì cũng có dấu hiệu bệnh thực của các con của ngũ hành.
Nhờ kinh nghiệm này chúng ta biết ngay đưa món ăn sai vào bao tử theo chu kỳ chuyển hóa bằng cơ học, thừa đường thì co bóp mạnh là thực, thiếu đường co bóp yếu là hư cũng dẫn đến nhiều bệnh, lúc đo mới chữa ngọn bệnh là sai.

Môt thí dụ đơn giản bộ máy tiêu hóa giống như một máy xay gạo ra bột, điều kiện cứ xay 1 kg gạo ra 1 kg bột, máy cần 1 lít xăng, xay 5kg gạo cần 5 lít xăng. Như vậy nếu có ai xay 1kg gạo đổ vào 5 lít xăng là thừa, máy chạy hết gạo mà cứ chạy không có gạo thỉ hư hỏng máy, còn cho 5kg gạo chỉ có 1 lít xăng thỉ biết ngay gạo không ra hết khỏi máy sẽ bị kẹt trong máy cũng hỏng máy.
Như vậy máy hỏng là do xăng thừa hay thiếu. Cho nên ngành y hiện nay chủ trương cho đường huyết thấp từ 3.9-5.9mmol/l=70-99mg/dl dể cho các tạng phủ hư hỏng mới có cơ hội cho nhiều bác sĩ có công ăn việc làm là cùng chữa bệnh trên một cơ thể con người.
Hậu quả cuối cùng là bao tử bị nghẹt, các thuốc chữa bệnh cũng bị giữ lại trong bao tử không chuyển đi đến tạng phủ cần chữa thì chúng tổng hợp thành chất dộc khiến bệnh nhân tử vong

(tiếp theo phần 4...)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO Á

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 7 Tháng 4 05, 2025 12:08 pm

PHẦN 4.
CHỨC NĂNG CHUYỂN HÓA THỨC ĂN VÀ THUỐC UỐNG CỦA GAN .
https://youtu.be/pwOQ9ATjzUM

I-Vị trí và cấu trúc của gan.

1-Cấu trúc :
Gan là một trong những cơ quan lớn nhất trong cơ thể, gan của người trưởng thành nặng khoảng 1,4 kg nằm ở bụng trên bên phải, bên dưới cơ hoành. Gan chiếm phần lớn không gian dưới xương sườn và một số không gian ở bụng trên bên trái. Có 2 thùy, thuy phải lớn hơn và thùy trái nhỏ hơn được ngăn cách bởi một dải mô liên kết neo gan vào khoang bụng. Các thùy cũng chứa hàng nghìn thùy nhỏ Những thùy này kết nối với nhiều ống dẫn mật, ống vận chuyển mật từ gan đến ruột non.Túi mật, nơi lưu trữ mật, nằm trong một hốc nhỏ ở mặt dưới của gan.
Mô gan được tạo thành từ nhiều đơn vị tế bào gan nhỏ hơn gọi là tiểu thùy. Nhiều ống dẫn máu và mật chạy giữa các tế bào gan. Máu từ các cơ quan tiêu hóa chảy qua tĩnh mạch cửa đến gan, mang theo chất dinh dưỡng, thuốc và cả các chất độc hại.

2-Một số bộ phận riêng lẻ quan trọng nhất của gan:
Ống gan chung: Một ống dẫn mật ra khỏi gan. Nó được hình thành từ giao điểm của ống gan phải và trái.
Dây chằng liềm: Một dây chằng mỏng, ngăn cách hai thùy gan và nối gan với thành bụng.
Bao Glisson: Một lớp mô liên kết lỏng lẻo bao quanh gan và các động mạch và ống dẫn liên quan.
Động mạch gan: Mạch máu chính cung cấp máu có oxy cho gan.
Tĩnh mạch cửa gan: Mạch máu mang máu từ hệ tiêu hóa, túi mật, tuyến tụy và lá lách đến gan.
Thùy: Các phần giải phẫu của gan và các khối xây dựng vi mô của gan.
Phúc mạc: Một màng bao phủ gan tạo vỏ bọc bên ngoài gan.

II-Chức năng của gan :
Gan là một cơ quan thiết yếu của cơ thể thực hiện hơn 500 chức năng quan trọng. Bao gồm loại bỏ các sản phẩm bị đào thải và các chất lạ ra khỏi máu, và điều hòa lượng đường trong máu và tạo ra các chất dinh dưỡng thiết yếu.
Gan có nhiều loại enzymes chức năng trao đổi chất quan trọng để chuyển hóa các chất dinh dưỡng trong chế độ ăn uống của chúng ta thành các chất mà cơ thể có thể sử dụng, và lưu trữ các chất này để cung cấp cho các tế bào khi cần. Gan cũng hấp thụ các chất độc hại và chuyển đổi chúng thành các chất vô hại hoặc đảm bảo chúng được giải phóng khỏi cơ thể.
Khi đến gan, các chất này được phân giải, lưu trữ, thay đổi, giải độc và đưa trở lại máu hoặc giải phóng vào ruột để đào thải. Theo cách này, gan có thể, loại bỏ rượu, hay độc tố của thức ăn và độc tố của thuốc ra khỏi máu và loại bỏ các sản phẩm phụ từ quá trình phân hủy thuốc.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra cách gan có thể phản ứng nhanh với thức ăn; các tế bào gan lưu trữ các phân tử tiền RNA liên quan đến quá trình trao đổi chất glucose và chất béo.
Sau đây là một số chức năng quan trọng nhất của gan:

III-Quá trình chuyển hóa

1-Chuyển hóa glucose:
Gan loại bỏ lượng glucose (đường) dư thừa khỏi máu và lưu trữ dưới dạng glycogen. Khi cần, gan có thể chuyển đổi glycogen trở lại thành glucose.
Sau bữa ăn, gan hoạt động với một cơ quan khác gọi là tuyến tụy để kiểm soát lượng đường trong máu (glucose). Nếu lượng đường trong máu xuống quá thấp, gan sẽ phân hủy lượng đường mà nó đã lưu trữ dưới dạng gọi là glycogen và giải phóng chúng vào máu .
Như vậy trong thức ăn bắt buộc phải có đường, khi chúng ta ăn thức ăn có nhiều đường thì gan sẽ lưu giữ đường thừa thành glycogen, thừa nhiều đường trong máu hơn nữa thì gan lọc máu loại đường thừa xuống theo nước tiểu ra ngoài.

2-Tại sao phải cần đường,
Theo lý thuyết tây y có đường mới chuyển hóa protein thành máu, không có đường thì thừa protein thì protein cũng bị loại bỏ theo nước tiểu nên tây y khi xét nghiệm máu thấy trong nước tiểu có protein.
Ngày nay tây y kiêng đường, hù dọa ép mọi người kiêng đường, hậu quả biết trước cơ thể sẽ thiếu lượng máu, và nước tiểu có protein.
Ngoài ra khi nhịn ăn hay thức ăn không có đường, thì đường huyết trong cơ thể tự nhiên tăng vọt, để gan dùng đường duy trì cho chức năng gan hoạt động, theo lý thuyết thì lấy đường dự trữ glycogen, nhưng kiêng đường thì làm gì có đường dự trữ, gan phải rút đường trong các cơ làm teo cơ, mất thịt, sụt cân, bắt buộc phải rút đường để gan làm các nhiệm vụ khác

3-Chuyển hóa chất béo :
Gan đóng vai trò trung tâm trong tất cả các quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Trong quá trình chuyển hóa chất béo, các tế bào gan phân hủy chất béo và tạo ra năng lượng. Chúng cũng sản xuất khoảng 800 đến 1.000 ml mật mỗi ngày. Chất lỏng màu vàng, nâu hoặc xanh ô liu này được thu thập trong các ống dẫn nhỏ và sau đó được đưa đến ống mật chính, mang mật đến một phần của ruột non được gọi là tá tràng. Mật đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân hủy và hấp thụ chất béo.
Vài phút sau khi ăn một bữa ăn, khi các chất dinh dưỡng tràn vào máu, cơ thể sẽ có những thay đổi lớn về cách phân hủy và lưu trữ chất béo và đường. Trong vòng nửa giờ, gan đã có sự thay đổi hoàn toàn, chuyển từ đốt cháy chất béo để lấy năng lượng sang lưu trữ thành đường glucose càng nhiều càng tốt.
Ngày nay kiêng đường, gan không có đường lưu trữ,

4-Chuyển hóa carbohydrate
Trong quá trình chuyển hóa carbohydrate, gan giúp đảm bảo lượng đường trong máu (glucose máu) luôn ổn định. Nếu lượng đường trong máu tăng lên, ví dụ sau bữa ăn, gan sẽ loại bỏ đường khỏi máu do tĩnh mạch cửa cung cấp và lưu trữ dưới dạng glycogen. Nếu lượng đường trong máu của ai đó quá thấp, gan sẽ phân hủy glycogen và giải phóng đường vào máu. Cũng như đường, gan cũng lưu trữ vitamin và khoáng chất (sắt và đồng) và giải phóng chúng vào máu khi cần thiết.
Ngày nay ai cũng kiêng sợ đường, nên chức năng gan không duy trì được lượng đường trong máu để đi nuôi các tế bào, nên tế bào thiếu đường không kết hợp vớ protein thành máu.

5-Chuyển hóa protein.
Gan cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa protein: các tế bào gan thay đổi acid amin trong thực phẩm để chúng có thể được sử dụng để tạo ra năng lượng hoặc tạo ra carbohydrate hoặc chất béo. Một chất độc hại gọi là amoniac là sản phẩm phụ của quá trình này. Các tế bào gan chuyển đổi amoniac thành một chất ít độc hơn nhiều gọi là urê, được giải phóng vào máu. Sau đó, urê được vận chuyển đến thận và ra khỏi cơ thể qua nước tiểu nên nước tiểu có mùi khai.
Với sự trợ giúp của vitamin K, gan sản xuất protein, một số trong số đó rất quan trọng trong quá trình đông máu. Đây cũng là một trong những cơ quan phân hủy các tế bào máu cũ hoặc bị hư hỏng.

6-Chuyển hóa lọc các chất độc trong máu :
Lọc máu: Loại bỏ các tế bào hồng cầu cũ. Toàn bộ dưỡng trấp rời khỏi dạ dày và ruột đều đi qua gan, nơi loại bỏ độc tố, sản phẩm phụ và các chất có hại khác.
Điều chỉnh lượng máu trong cơ thể.
Gan có thể loại bỏ rượu khỏi máu và loại bỏ các sản phẩm phụ của thuốc.
Nhưng tốc độ diễn ra của quá trình này đã khiến các nhà khoa học bối rối - đây là khoảng thời gian quá ngắn để các tế bào gan kích hoạt gen và tạo ra bản thiết kế RNA cần thiết để lắp ráp các protein mới nhằm hướng dẫn quá trình trao đổi chất.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu của Salk đã phát hiện ra cách gan có thể phản ứng nhanh như vậy với thức ăn; các tế bào gan lưu trữ các phân tử tiền RNA liên quan đến quá trình trao đổi chất glucose và chất béo.
Nếu cơ thể không đủ đường do kiêng sơ đường huyết cao, thì gan không làm được nhiệm vụ trao đổi chất glucose và chất béo được

7-Gan sản xuất mật.
Gan cũng sản xuất mật, là một chất lỏng rất quan trọng đối với quá trình tiêu hóa và hấp thụ chất béo ở ruột non.giúp tiêu hóa chất béo và mang chất thải đi.

8-Sản xuất albumin:
Albumin cũng là một loại protein giúp giữ chất lỏng trong máu không rò rỉ vào các mô xung quanh. Nó cũng vận chuyển hormone, vitamin và enzyme qua cơ thể.

9-Điều chỉnh acid amin
Quá trình sản xuất protein phụ thuộc vào acid amin. Gan đảm bảo nồng độ acid amin trong máu luôn khỏe mạnh.

10-Sản xuất các chất đông máu:
Chất đông máu được tạo ra bằng cách sử dụng vitamin K, chỉ có thể được hấp thụ với sự trợ giúp của mật, một chất lỏng do gan sản xuất.

11-Chống nhiễm trùng:
Gan cũng cần đường tạo kháng thể là một phần của quá trình lọc, gan cũng loại bỏ vi khuẩn khỏi máu.
Lưu trữ vitamin và khoáng chất: Gan lưu trữ một lượng lớn vitamin A, D, E, K và B12, cũng như sắt và đồng.

12-Chuyển hóa từ nhịn ăn sang ăn. .
Việc chuyển từ nhịn ăn sang ăn là một sự chuyển đổi rất nhanh và sinh lý học của cơ thể chúng ta phải thích nghi với nó trong khung thời gian phù hợp", Satchidananda Panda, giáo sư tại Phòng thí nghiệm sinh học điều tiết của Viện Salk và là tác giả chính của bài báo, được xuất bản vào ngày 6 tháng 2 năm 2018 trên tạp chí Cell Metabolism, cho biết. "Bây giờ chúng ta biết cơ thể mình phân giải nhanh chóng lượng đường tăng đột biến đó như thế nào".

Người ta đã biết rằng một loại protein liên kết RNA có tên là NONO có liên quan đến việc điều chỉnh nhịp sinh học hàng ngày trong cơ thể.
Nhưng Panda, cùng với tác giả đầu tiên Giorgia Benegiamo, một cựu sinh viên tốt nghiệp tại phòng thí nghiệm Panda, và các cộng sự của họ tự hỏi liệu NONO có vai trò cụ thể nào trong gan hay không.
Họ đã phân tích mức độ NONO để đáp ứng với việc ăn và nhịn ăn ở chuột.
Sau khi những con vật này ăn, các cục NONO lốm đốm đột nhiên xuất hiện trong các tế bào gan của chúng, mới gắn vào các phân tử RNA.

Trong vòng nửa giờ, mức độ của các protein tương ứng - những protein được mã hóa bởi RNA liên kết NONO -- tăng lên.

"Sau khi chuột ăn, có vẻ như thể NONO tập hợp tất cả các RNA này lại với nhau và phân giải chúng để chúng có thể được sử dụng để tạo ra protein", Panda nói.
Khi chuột thiếu NONO, phải mất hơn ba giờ để mức độ của cùng một loại protein, tham gia vào quá trình chuyển hóa glucose, tăng lên.

13-Chuyển hóa đường tăng vọt khi nhịn ăn.
Là hậu quả cơ thể bị mất đường sụt cân chứ không phải do thức ăn làm thừa đường huyết cao. Các bác sĩ không phân biệt được đường huyết cao là loại đường nào., mặc dù lý thuyết của tây đã nhắc nhở câu 1 là : Thừa đường thì béo phì, nhưng không có kinh nghiệm câu thứ 2 là : Người gầy không béo phì mà bị sụt cân, mà đường cao là đường từ thịt bị teo mất đi.
Tuy nhiên khi nghiên cứu về chức năng chuyển hóa của gan thì dù đường trong thức ăn cao bao nhiêu cũng được gan duy trì lượng đừong cân bằng cho cơ thể đầy đủ, còn thừa bao nhiêu sẽ được đào thải theo nước tiểu và phân, nên không ai bị bệnh tiểu đường, ngoài ra tập thể dục thì đường huyết cũng giảm, nên không có ai bị bệnh tiểu đường cả. Đường càng cao kháng thể phòng chống bệnh càng mạnh. Chúng ta bị gán tội bệnh tiểu đường là do cái bẫy tiêu chuẩn đường huyết thấp của Bộ Y Tế đã lừa gạt chúng ta gần nửa thế kỷ.

Trong khoảng thời gian nhịn ăn, lượng đường trong máu tăng vọt lên mức không lành mạnh do gan điều tiết đường trong các cơ bắp, mô thịt, mỡ bỉ rút ra bổ sung năng lượng đường cho cơ tim co bóp tuần hoàn máu duy trì sự sống nên cơ thể càng bị sụt cân, hậu quả mất cơ bắp thì chất creatin trong cơ bắp. trở thành creatinin tăng cao bị thải lọc theo nước tiểu, dẫn đến phải lọc thận,

Trường hợp đường huyết cao khi cơ thể kiêng không ăn đường, hay nhịn ăn, hay thức ăn không có đường, thì chức năng gan phải rút từ chất béo, xương, thịt chuyển hóa thành đường cứu tim làm nhiệm vụ tuần hoàn máu, dẫn đến hậu quả khác là không đủ đường cho các cơ co bóp tiêu hóa như cơ co bóp nuốt của thực quản để lùa thức ăn vào bao tử cơ co bóp bao tử, cơ co bóp ruột, cơ co bóp phổi, cơ co bóp gan, tất cả bị mất đường do chức năng gan và bao tử suy yếu không hấp thụ được thức ăn lại trở thành bệnh suy dinh dưỡng, thiếu khí, thiếu máu, đo áp huyết càng ngày càng thấp dưới 90/60mmHg.mạch 50 là áp huyết của các bệnh nan y, và ung thư.

Trường hợp này tây y hiểu lầm là đường huyết cao thật mà tiêm insulin làm hạ đường thì chính insulin là thủ phạm giết người một cách công khai, sau khi tiêm bệnh nhân rơi vào hôn mê chết ngay, khác với insulin là kẻ thù giết người một cách thầm lặng, vì cơ thể lúc nào cũng cần đường để cho chức năng gan và bao tử chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu, mà tiêm insulin suốt đời là kẻ ăn cắp đường làm chức năng tiêu hóa suy yếu áp huyết càng ngày càng xuống thấp thành hư chứng cấp độ 3-4 dẫn đến cái chết,
hậu quả khi thiếu đường bị suy tim, suy hô hấp, suy thận, suy gan, nên insulin cũng là kẻ thù giết người thầm lặng.
Kết luận : đường huyết dưới 6mmol/l không đủ cho chức năng bao tử và gan chuyển hóa thức ăn cơ thể trở thành suy dinh dưỡng.
Đường huyết trên 7mmol/l bị tiêm insulin mỗi ngày suốt đời làm chết người thầm lặng sau một thời gian dài điều trị các biến chứng
Kiêng đường, nhịn ăn, tự nhiên đường huyết càng ngày càng tăng vọt là do gan rút đường trong thịt, mỡ, xương, tủy để cứu tim, vô tình tiêm insulin thì insulin chính là kể giết người công khai bệnh nhân hôn mê tử vong ngay trước mặt bác sĩ đã chữa theo đúng quy trình của Bộ Y Tế.

IV-Các loại bệnh gan, nguyên nhân và triệu chứng :

1-Nguyên nhân :
Khi một người mắc bệnh gan, một trong những triệu chứng phổ biến nhất là vàng da.
Khi mắc bệnh vàng da, da và lòng trắng mắt chuyển sang màu vàng do có quá nhiều bilirubin trong máu. Bilirubin là chất thải màu vàng mà gan thải ra khi phân hủy các tế bào hồng cầu. Nồng độ bilirubin cao hơn cho thấy có thể có vấn đề ở gan.
Đôi khi, mô gan bị tổn thương có thể tái tạo hoặc phát triển trở lại.
1-Các bệnh xảy ra khi một người tiêu thụ quá nhiều chất độc, hoặc uống nhiều thuốc, chẳng hạn như bệnh gan liên quan đến rượu và bệnh gan nhiễm mỡ (mỡ thừa).
2-Các bệnh di truyền như bệnh thừa sắt (quá tải sắt) và bệnh Wilson (quá nhiều đồng trong cơ thể).
3-Ung thư gan, khi các tế bào bất thường phát triển quá nhanh.
4-Các vấn đề khi hệ thống miễn dịch tấn công gan, chẳng hạn như viêm gan tự miễn, viêm đường mật xơ cứng nguyên phát và viêm đường mật nguyên phát.
5-Nhiễm trùng do vi-rút, chẳng hạn như viêm gan A, viêm gan B và viêm gan C.
Nhiều tình trạng trong số này có thể dẫn đến xơ gan (sẹo) ở gan.

2-Triệu chứng :
Tích tụ dịch ở vùng bụng (cổ trướng).
Dễ bị bầm tím.
Ngứa da.
Huyết áp thấp.
Đau bụng.
Sưng ở chân hoặc mắt cá chân.
Run rẩy.
Yếu cơ, mất thăng bằng hoặc mệt mỏi liên tục.
Lú lẫn hoặc mất phương hướng

V-Thế nào là gan chuyển hóa thức ăn tốt hay xấu :
Đo áp huyết 2 bên, tay trái hay tay phải đều làm ảnh hưởng đến tim, nên tây y chỉ biết máy đo áp huyết là máy đo áp huyết của tim mạch là sai, chỉ có điện tâm đồ mới là đo tim.
Theo đông y dùng máy đo áp huyết thay cho bắt mạch.

a-Khi đo áp huyết tay trái là khám chức năng của bao tử sẽ thay đổi khác nhau trước ăn và sau ăn tốt hay xấu.
b-Khi đo bện tay phải là khám chức năng hoạt động của gan cũng thay đổi trước ăn sau ăn khác nhau tốt hay xấu.
Tây y không biết cách khám chức năng hoạt động của hệ tiêu hóa chuyển hóa thức ăn tốt hay xấu bằng máy đo áp huyết, thì cần phải nghiên cứu cách khám của đông y để giải thích nguyên nhân và hậu quả gây ra bệnh nhờ các con số hiển thị trên máy đo áp huyết, nếu lệch chuẩn theo tiêu chuẩn tuổi thì bị bệnh.
Áp huyết có 3 số nhưng ý nghĩa đo ở 2 tay khác nhau :
Thí dụ áp huyết tuổi trung niên :
120-130/70-80mmHg 70-75

1-Ý nghĩa áp huyết tay trái khi đói, khi no :
Tâm thu tay trái gọi là khí lực co bóp của bao tử là thể tích bao tử khi đói 120mmHg, khi no khí lực tăng 130mm/Hg
2-Tâm trương tay trái chỉ lượng thức ăn
Khi bụng đói thấp 70mmHg, khi no bao tử đầy thức ăn 80mmHg
Nhịp mạch thấp 70 là nhiệt lượng bao tử khi đói, khi no thức ăn làm tăng nhiệt cho bao tử lên 75

3-Ý nghĩa áp huyết tay phải khi đói, khi no :
Tâm thu tay phải gọi là khí lực co bóp của gan, là thể tích của gan phải cao 130mmHg để chuẩn bị co bóp chuyển dịch tiêu hóa sang bao tử và ruột, sau khi bao tử ăn no được 30 phút tâm thu tăng 130 mmHg thì tâm thu tay phải là gan giảm thấp 120mmHg, trong thời gian 4 tiếng bao tử chuyển hóa thức ăn thành chất bổ máu, bao tử co bóp giảm khí để đẩy thức ăn xuống ruột làm gỉam thể tích trở về trạng thái đói 120mmHg, lúc đó tâm thu bên gan từ từ tăng lên thu nạp máu, mỡ, đường để chuyển hóa lọc máu, thải độc nên thể tích gan lại tăng lên 130mmHg.
Giống như 2 bàn đạp của xe đạp, một bên xuống thì một bên lên.
Nếu như tháo bàn đạp ra thay vào 1 trục nằm ngang, không có bàn đạp, thì xe không đạp được chỉ đứng một chỗ, không di chuyển được gọi là không có chuyển hóa, như áp huyết đo 2 tay giống nhau, trước ăn sau ăn giống nhay như 125/75mmHg 72, tây y cho là áp huyết tốt là sai, vì đây là áp huyết chết, thức ăn không được co bóp để hấp thụ và chuyển hóa thành chất bổ nuôi tế bào
Nhịp mạch cao hơn 75 là bao tử nhiệt, thấp hơn 70 là bao tử hàn

4-Tâm trương tay phải chỉ lượng máu trong gan, tay phải không có nghĩa là lượng thức ăn như trong bao tử mà đã chuyển thành máu, gọi là lượng máu, sẽ có 3 trương hợp khác nhau do lượng thức ăn đúng hay sai, tâm trương có thay đổi như

- nếu trước ăn và sau ăn tâm trương bên gan giống nhau là thức ăn không có chất tạo máu 70- 70mmHg
– Trước ăn 70, sau ăn 80 là tăng lượng máu
– Trước ăn 70, sau ăn còn 60, là trong thức ăn có chất phá máu làm giảm lượng máu trong gan sẽ bị sụt cân

5-Gọi tâm trương tay phải là máu nhưng trong lượng máu gồm máu, mỡ, nước chứ không hoàn toàn là máu, nên tâm trương có thể cao 90,
Chúng ta có thể biết tâm trương 90 trong đó có bao nhiêu là máu bằng cách tập bài Vỗ Tay 4 Nhịp, người xuất mồ hôi là nước, sau khi tập tâm trương xuống còn 85, tập tiếp thì mồ hôi ra là mồ hôi mỡ, khi đo lại còn 80, rồi tập nữa chỉ bị mệt mà không ra mồ hôi thì 80 là lượng máu, cho nên những người thiếu máu chỉ có 60 nếu tập chỉ mệt mà số tâm trương tay phải không xuống, do dó có ai nói tôi tập nhiều chỉ mệt mà không bao giờ ra mồ hôi thì biết cơ thể người này thiếu lượng máu, thiếu lượng máu khác với thiếu máu là thiếu hồng cầu hay thiếu chất sắt.
Nhịp mạch cao hơn 75 là gan nhiệt, thấp hơn 70 là gan hàn, nếu nhịp mạch 55 là máu, mỡ và mật trong gan hàn lạnh bị đặc lại sẽ bị đột quỵ vì máu đông đặc không chạy vào tim, lúc đó bị nhói tim tức ngực khó thở do tim thiếu máu cơ tim cục bộ..

VI-Nhìn số đo áp huyết 2 tay chuyển hóa thức ăn tốt hay xấu như thế nào.

1-Các vấn đề về chức năng chuyển hóa thức ăn của bao tử :

a-Chức năng chuyển hóa thuận 100%
Áp huyết tay trái thì phải nằm trong tiêu chuẩn đói theo tiêu chuẩn tuổi.
Thí dụ tiêu chuẩn tuổi đói trung niên : 120/70mmHg nhịp mạch 70 đường huyết 140mg/dl,
Nhiệt độ trán, đầu ngón tay út, đầu ngón chân út trái đều 36 độ C
Sau khi ăn no 30 phút áp huyết tâm thu phải cao 130/80mmHg nhịp mạch 75, đường huyết 200mg/dl
Nhiệt độ 3 nơi tăng 36.5 độ C
b-Nếu đường huyết cao thật :
Thí dụ như đường huyết cao 300mg/dl mà làm tăng nhịp tim cao hơn như 90, nhiệt độ cao hơn 37 độ C là thừa đường, chỉ cần tập bài Lăn Người 5 phút hay tập bài Vỗ Tay 4 nhịp thì đường xuống dưới 200mg/dl thì ngưng, nếu còn cao thì uống thêm 1 ly nước nóng ấm làm loãng đường thì đường xuống thấp.
c-Nếu đường huyết cao mà nhịp tim, nhiệt độ không thay đổi. :
Thí dụ như đường huyết cao 300mg/dl, áp huyết, nhịp tim không thay đổi, thì trong đó có 200mg/dl đường thật, còn 100mg/dl là đường từ rau củ quả không có calo và nhiệt lượng, thì không phải bị bệnh tiểu đường. Tự cơ thể sẽ chuyển hóa nhanh đường có tỷ trọng thấp là đường rau củ quả,
d-Dường huyết cao 300mg/dl, nhưng áp huyết thấp dưới tiêu chuẩn, nhịp tim, nhiệt độ thấp.
Không phải là đường cao thật, do kiêng đường mà ăn nhiều rau của quả, là đường không cho calo và nhiệt lượng, là cơ thể thiếu đường thật để chuyển hóa thức ăn, phải uống thêm đường cát vàng glucose thỉ đường giả bị tụt xuống, nhịp tim tăng, nhiệt độ tăng, uống thêm đường cho đến khi nào tăng nhịp tim, nhiệt độ vào tiêu chuẩn.
e--Đường huyết thấp 140mg/dl sau khi ăn thì nhịp tim thấp, nhiệt độ thấp, thì áp huyết thấp như 115/80mmHg nhịp mạch 65.
Số 80 mmHg là tâm trương cao, nhưng thức ăn không có bổ máu, vỉ không đủ năng lượng nhiệt lượng để chuyển hóa protein thành máu mà biến thành mỡ, Như vậy là bao tử chuyển hóa thức ăn nghịch lên cổ họng sinh dàm, thiếu đường cho cơ co bóp thực quản , bao tử, ruột, hậu qủa tế bào thiếu máu do thức ăn không được chuyển hóa thành máu, Sau 4 tiếng thức ăn cũ trong bao tử không tiêu làm bao tử tăng acid, lúc đó chức năng gan không nhận được đường từ thức ăn nên rút đường dự trữ trong gan ra nên đường huyết tăng vọt trên 300mg/dl chỉ để cứu tim đủ đường tuần hoàn máu, là đường mất đi, từ đây chúng ta bị tây y kết tội có bệnh tiểu đường là chúng ta lại bị lọt bẫy về quy trình tiểu đường cao và lại gặp phải insulin là kẻ thủ phạm sắp đưa chúng ta vào cái chết thầm lặng.
g-Kiêng đường giữ đường thấp dưới 6mmol/l, không bỉ bệnh tiểu đường là sai.
Hậu quả đường huyết như 90mg/dl lọt vào bẫy không bị tiểu đường thì lại bị mỡ máu cao cholesterol cao, triglycerid cao,và men gan cao. Tránh vỏ dưa lại ngã vì vỏ dừa đau hơn

2-Các vấn đề vế chuyển hóa thức ăn của gan :

a-Chúc năng gan chuyển hóa thuận 100%
Có áp huyết trước khi ăn trong tiêu chuẩn đói về tâm thu 130mmHg, về tâm trương đói như 70mmHg, nhịp tim trong tiêu chuẩn, đường huyết đói 140mg/dl, nhiệt độ 3 nơi đều 36 độ C
Sau khi ăn 30 phút áp huyết gan tâm thu xuống thấp 120mmHg, nhưng tâm trương cao 80mmHg là có thu nhận được máu từ thức ăn, nhịp tim tăng 80, nhiệt độ tăng 36.5 độ C cả 3 nơi.
b-Chức năng gan chuyển hóa nghịch gây ra bệnh rối loạn đường huyết
Khi đói mà áp huyết bên gan thấp là gan không làm việc, nên bao tử không biết đói, chưa muốn ăn, hay ăn ít vì chán ăn, nguyên nhân đường huyết thấp trong bẫy của tiểu đường, các cơ co bóp yếu không co bóp, tốc độ tuần hoàn máu chậm, nhịp tim chậm, người lạnh, sau khi ăn đường huyết không tăng thì hoàn toàn thức ăn không tiêu, thì biến thành mỡ, nên sau 4 tiếng là đến bữa ăn kế tiếp không muốn ăn, thì gan lại rút đường trong cơ thể tăng vọt lên, tây y gọi là rối loạn đường huyết lại phải điều trị bệnh tiểu đường lọt vào sổ bộ khai tử, tùy theo bác sĩ cho mình gặp kẻ thù giết người thầm lặng hay giết người công khai.
c-Chuyển hóa yếu không đủ 100% gây ra bệnh rối loạn đường huyết
Cho dù bao tử có chuyển hóa 100% và có ăn thức ăn bổ máu và lượng thức ăn đầy đủ, có chuyển hóa thành máu, nhưng chức năng chuyển hóa của gan yếu thí dụ chỉ có 30% thì chỉ nhận được máu, đường, mỡ 30%, còn thừa bị gan lọc thải ra ngoài cơ thể, cũng do rối loạn đường huyết, lại lọt vào danh sách khai tử phải tiêm insulin.

d-Ngược lại bao tử chuyển hóa thuận 100%,nhưng áp huyết thấp dưới tiêu chuẩn tuổi gây ra bệnh rối loạn đường huyết
Vì những thức ăn trong bao tử không có đường do kiêng đường, thì không chuyển hóa thành máu, gan lại rút đưởng của cơ thể cứu cho tim không bị ngưng đập, lại trở thành bệnh rối loạn đường huyết.

VII-Đường huyết thấp do kiêng đường làm 5 tạng suy yếu theo ngũ hành me-con
Theo ngũ hành tương sinh me-con, khi áp huyết đo bên tay phải thấp tâm thu dưới tiêu chuẩn tuổi là gan khí hư, thí dụ như trước ăn và sau ăn không thay đổi như 110/65mmHg nhịp mạch 60 như vậy là xơ teo gan, gan chứa máu, và mỡ, máu nuôi thịt, mỡ nuôi các sợi thần kinh, ống dẵn máu, nuôi các mô sụn, đĩa đệm, xương, tủy, do nguyên nhân thiếu đường chuyển hóa thì gân cơ co cứng cử động không linh hoạt, đến khi rối loạn đường huyết là cơ thể thiếu đường trầm trọng gân cơ co rút, run giật trở thành bệnh parkinson, và gan rút đường trong thịt, gân xương, tủy, não, thần kinh trở thành bệnh rối loạn đường huyết là chức năng gan hư yếu là nguyên nhân gây ra bệnh parkinson, là trong não thiếu đường trầm trọng, làm rối loạn thần kinh giao cảm và vận động, tây y không chữa được bệnh parkinson vì nghĩ rằng đường huyết cao phải dùng thuốc hạ đường khiến bệnh parkinson càng nặng.
Khi gan yếu, hư chứng, là mẹ của tim cũng hư chứng nên bị suy tim, lại bị rối loạn đường huyết làm rối loạn áp huyết, nhịp tim, nên nhịp tim cao đường huyết thấp là thiếu máu, do không có đường chuyển hóa protein thành máu, dẫn đến bệnh khác là đường huyết thấp, nhịp tim thấp áp huyết cao, lại gọi là rối loạn áp huyết, khi suy tim thì hỏa của tim và thủy của thận không quân bình, thủy là thận, mẹ của gan sẽ bị suy thận, mất hết chức năng lọc thận cũng do thiếu đường, khi nước tiểu không thông do thận không lọc làm ứ nước ứ creatinin, ứ protein lại làm tăng áp huyết sưng phu chân, sưng tuyến tiền liệt ở nam hay ở nữ bị ứ máu cục trong tử cung buồng trứng gây ra ung thư.

Tim là mẹ của bao tử và lá lách bị hàn thì mọi chức năng tạng phủ không hoạt động, thì con của bao tử là phổi và đại trường cũng bị hư chứng hàn, thần kinh phế vị co rút, bao tử không đủ khí lực không đủ đường giúp các cơ và thần kinh chỉ huy sự co bóp gây ra khó thở, lại không đủ năng lượng và nhiệt lượng nuôi con là thận, nên nước trong thận và bàng quang không đủ nhiệt bốc hơi, làm chân tay mặt sưng phù, thủy mạnh hơn hỏa lại làm tăng áp huyết ở 2 chân, phình tĩnh mạch chân, mạch 2 chân thấp hàn lạnh, máu dưới chân không chuyển động thì các tế bào da ở chân bị hoại tử, mạch máu bị xơ vữa, kết cấu tế bào da kết thành mô hoại tử phải tháo khớp cưa chân.

Tất cả nguyên nhân do thiếu đường huyết thấp, kiêng sợ đường và rối loạn đường huyết do nhịn ăn, không ăn đường thì gan làm rút đường trong cơ thể cho đường huyết tăng vọt, những biến chứng này giúp cho bệnh nhân có được nhiều các bác sĩ săn sóc tận tình nhiều bệnh của mình cho đến khi mình chết, Bệnh rối loạn đường huyết thì bệnh nhân không thấy, chứ rối loạn điều trị các ngọn bệnh và biến chứng của nhiều bác sĩ cùng lúc cho nhiều loại thuốc, trở thành độc tố hại chức năng. mà không có bác sĩ nào chữa vào nguyên nhân gốc bệnh.

VIII-Thuốc đông y NGŨ VỊ TỬ phục hồi chức năng gan hay hơn thuốc tây.
Tên khoa học là Chinese magnolia, có bán ở tiệm thuốc bắc.

1-Tính vị, công năng :
Ngũ Vị tử có vị chua chát, chua dẫn thuốc vào gan, chát là thu liễm, tính ấm, vào 2 kinh phế thận, có tác dụng liễm phế là bảo vệ khí cho phổi để chữa ho, bổ thận để tồn tinh, thu liễm mồ hôi, sinh tân dịch, thận là mẹ của gan, chức năng gan hư là con hư thì phải bổ mẹ là thận, thì chính Ngũ Vị Tử là bổ gan thận chính là bổ chức năng gan.nên có rất nhiều công dụng như :

Trị phế hư, ho tức ngực, suyễn, miệng khô khát, mỏi mệt, thận hư, liệt dương, di tinh, mồ hôi trộm, tả lỵ lâu ngày, đái dầm, mất ngủ, căng thẳng, phục hồi chức năng gan, hồi hộp, hay quên, giải độc gan, chống đông máu, chữa loét bao tử và ruột, có tác dụng bảo vệ chống độc hại gan, có tính kháng khuẩn, chữa viêm gan, tổn thương gan. Chữa cảm lạnh, say sóng, bổ gan phục hồi sức khỏe .

2-Cách dùng :
Là dạng hạt nhỏ, mỗi lần uống 2-4g, ngày 3 lần, dùng thuốc sắc hay dạng tán bột
Kiêng kỵ :
Không được dùng cho người đang bị sốt, cảm, đang lên sởi

3-Kiểm chứng kết quả khi dùng thuốc :
Đo áp huyết 2 tay, 2 cổ chân trong, đo đường huyết, đo nhiệt độ trên trán, nhiệt độ đầu ngón tay út trái, đầu ngón chân út trái, pH nước bọt, trước khi dùng thuốc khi bụng đói để không bị ảnh hưởng của thức ăn làm thay đổi tính thuốc, sau khi dùng thuốc 1 tiếng rồi đo lại tất cả các con số , rồi so sánh số nào tăng, số nào giảm, áp huyết, đường huyết, nhiệt độ có lọt vào tiêu chuẩn tốt theo hạn tuổi không,
Dùng thuốc và theo dõi mỗi ngày khi áp huyết tăng trở thành thực chứng hay giảm trở thành hư chứng thì ngưng, là thuốc đã dùng đủ rồi, phải ngưng thuốc không được dùng tiếp tục như kiểu dùng thuốc suốt đời của tây y là sai.

IX-Những kinh nghiệm thực tế .

1-Nguyên nhân sanh non bé bị còi xương trở thành bại liệt.
Một gia đình người Ý ở bên nước Ý, do người mẹ bị chữa bệnh tiểu đường thai kỳ nên sanh ra bé gái thiếu tháng bị yếu xương chậm phát triển, không biết tây y chẩn đoán ra sao, nhưng cứ mỗi năm phải sang Mỹ vào một bệnh viện đặc biệt ở Philadelphia điều trị tái khám được 12 năm, cuối cùng bác sĩ kết luận trong người bé thiếu oxy, cần phải đưa bé nằm vào trong một máy đặc biệt rất tốn kém, mỗi lần tốn 20 ngàn dollar. Tôi có một người học trò người Ý lại quen biết gia đình này, hỏi tôi bệnh này có chữa được không. Tôi bảo chữa được, vì oxy chung quanh chúng ta vẫn có, chỉ vì bé không hấp thụ được thì vào máy cũng không hấp thụ được. Nên người học trò Ý này nói họ đem bé sang Montreal Canada ở nhà ông ta, rồi mời tôi đến nhà chữa.
Khi nhìn bé thì xương cổ mềm cứ gục đầu xuống. Tôi hỏi bé bị năm bao nhiêu tuổi, mẹ bé nói từ khi mới sinh, đã chữa tại bệnh viện Philadelphia 12 năm, tốn hơn 1 triêu mà không tiến bộ, bé không nói được, không đi lại được, mẹ bé muốn nói chuyện với bé thì có cái bảng dạy cho người câm, chỉ vào đó bé nhìn thì biết, như ăn, uống, no, đói, tiêu, tiểu, không, có, được...

Tôi cho bé nằm xấp vuốt cột sống từ dưới lên trên cho tăng khí, vê 5 đầu ngón tay chân kích thích hệ thần kinh giao cảm để bé có phản xạ, bấm huyệt Nhân Trung cho oxy lên não, bấm huyệt Chiên Trung (Đản Trung ) là nơi Khí vinh-vệ là khí nuôi dưỡng và bảo vệ của cơ thể đi qua làm nở lồng ngực, rồi vuốt Trung Quản xuống Khí Hải thì thấy bé thở được nhiều hơn, rồi day 5 đầu ngón chân cho khí xuống chân và để thức tỉnh não, Sau đó chỉ cho bố mẹ bé thực hành vuốt huyệt cho bé, chỉ cho bé cách ăn nhửng thức ăn bổ máu, cho bé tập đeo phao xuống hồ bơi cho bé nổi để bé tự động vùng vẫy chơi với quả bóng, tự nhiên bé khỏe ra, chỉ cho mẹ bé bấm huyệt Thiên Đột cho bé nuốt và tập nói và dạy bé hát bài Ê bi xi đi ( a,b,c,d.) .để dạy bé chữ và phát âm từng chữ thay cho bằng nói chuyện câm, ngày nào cũng tập bơi trong hồ nước, sau đó cho bé tập máy đạp chân chữa trong thời gian 1 tuần thì bé về lại bên Ý. Họ nói mỗi năm sẽ sang Canada nhờ tôi chữa một lần, bỏ bệnh viện bên Mỹ. Năm sau họ rủ 7 gia dình đều có các bé giống bệnh như bé này. Tất cả đều ở khách sạn và tôi đến khách sạn chữa cho 7 bé trong 1 tuần, năm sau các bé đến nữa, tôi chỉ cho bố mẹ bé tự chữa ở nhà, không cần sang Canada nữa, có gì cứ gọi điện thoại hỏi tôi.
Hai năm sau đó bé Antoine biết nói, biết viết chữ, biết gọi tên tôi.
Một hai năm sau bỗng nhiên tôi đang làm trong phòng mạch, thì có điện thoại mẹ bé cầu cứu bé đang ngồi mà bị lên cơn co giật động kinh, cứ mỗi lần như vậy phải vào bệnh viện cấp cứu nhiều lần không khỏi, nên lần này mới gọi tôi. Tôi bảo bà lấy tay nâng cái cằm của bé lên thì hết bị động kinh. Bà mẹ làm theo, rồi la lên, bé hết động kinh rồi, nhưng bây giờ tôi phải làm sao, hễ buông tay ra thì bé lại bị nữa. Tôi bảo rằng bé không phải bị động kinh, mà xương cổ còn yếu khi cổ bị gập xuống chặn khí quản không thở được nên có phản xạ ngửa cổ lên mới thở được, như vậy chỉ cần ra tiệm thuốc tây mua cái vòng nâng cổ giữ cho cổ thẳng không bị gập cổ xuống là khỏi.
Đối với những người già xương cổ yếu bị vẹo cổ một bên, tôi không cần chữa, dặn bệnh nhân ngâm trứng gà vào dấm trong 2 ngày, mỗi ngày ăn sống 1 quả trong 1 tuần xương cổ ngay thẳng lại.

2-Nguyên nhân người thực vật.
Người học trò Ý của tôi hỏi tôi có chữa được người ở bên Mỹ bị trở thành người thực vật lâu đã 6 tháng rồi không. Tôi bảo được, rồi cả 2 chúng tôi sang Mỹ, vào một bệnh viện sang trọng dành cho những người thực vật. Tôi gặp chồng bệnh nhân và hỏi ông đã xin phép bác sĩ ở đây cho tôi vào chữa chưa, ông nói lo xong hết rồi, Phòng bệnh nhân nằm là một phòng rộng lớn đầy đủ tiên nghi, có tủ lạnh, có salon cho thân nhân đến thăm, bệnh nhân như ngủ trên giường, mỗi lần đi tắm họ đẩy nguyên cà giường vào nhà tắm lớn, sau đó chuyển sang giường mới đẩy bệnh nhân trở về phòng, gắn lại các máy đo oxymeter, để ngoài văn phòng y tá có camera theo dõi hình ảnh bệnh nhân.
Sau khi y tá ra khỏi phòng thì có gằn một bảng ngoài cửa phòng bệnh nhân là cấm vào,
Tôi nhìn bà bệnh nhân này mặt hồng hào, nằm như ngủ say, không có truyền thuốc hay thở oxy gỉ cả, tới giờ ăn bơm thức ăn vào bụng. Người săn sóc bệnh nhân là chồng và cô con gái thay phiên nhau, còn chúng tôi thì ở tại ngôi biệt thự sang trọng của chị bà bệnh nhân này ở Maryland, bà chị này là sở hữu chủ của 2 bệnh viện lớn tại NewYork.

Tôi nhìn bệnh nhân để chẩn bệnh thấy sắc mặt hồng hào là còn thần, phổi còn thở là còn phách, chỉ còn hồn là đang rong chơi chưa nhập về xác. Chức năng gan tàng hồn, nên tôi bấm huyệt Thái Xung và day huyệt Chí Âm làm tỉnh não, bệnh nhân mở mắt nhưng chưa tỉnh trí. Tôi hỏi cô con gái nguyên nhân tại sao mẹ cô bị bệnh này.
Cô kể gia đình cô giầu có danh giá thuộc hoàng tộc Hy Lạp, bố cô quản lý nhiều công ty hàng hải đi khắp thế giới, nên vợ không được làm gì cả chỉ ở nhà muốn hội họp vui chơi với bạn bè thì tha hồ, nhưng có lần chồng về thấy nhà ồn ào quá, mà ông đang mệt mỏi căng thẳng vì công việc, ông la bà trước mặt bạn bè của bà làm bà tự ái giận tím người bỗng té ngã phải vào bệnh viện cấp cứu, Khi giận đường huyết tăng, tiêm insulin rồi rơi vào hôn mê sâu trở thành người thực vật, bị chuyển đến bệnh viện chuyên môn chữa bệnh cho những người thực vật.
Khi ông nghe con gái báo tin mẹ tỉnh rồi, ông vội vào thăm, bà nhìn ông không nói, nằm quay mặt vào vách có vẻ giận không muốn nhìn ông, tôi nghĩ là bà còn giận chồng. Tôi báo cho ông biết và hỏi ông khi ông yêu bà ông tặng bà cái gì, bây giờ ông hãy mua cái ấy rồi đứng trươc mặt bà đưa cho bà xem rồi ôm hôn bà xin lỗi bà khi bà bằng lòng thì mới tỉnh hẳn,
Đến chiều ông mặc bộ đồ vest, thắt cà vạt, khoe với tôi là đã có quà tặng bà rồi, đó là một cành bông hồng mầu tím, ông đi vòng phía vách tường nơi bà đang quay mặt vào vách, tôi nghĩ chắc bà chưa biết bà đang nằm trong bệnh viện mà nghĩ rằng mới giận ông và bị té ngã, ông nghe lời tôi dặn, ông ôm lấy bà xin lỗi, nước mắt bà chảy ra nơi khóe mắt, ông hỏi tôi giờ phải làm gì, tôi bảo ra văn phòng nói với y tá cho mượn chiếc xe lăn chở bà ra ngoài vườn chơi vừa phơi nắng cho bà ngắm cảnh.
Những thân nhân của các bệnh nhân khác trong bệnh việc đều ngạc nhiên đã có một người thực vật được chữa khỏi đang ngồi xe lăn ở ngoài vườn, họ dắt một bệnh nhân đến hỏi tôi rằng, ông này bị não chết, có chữa được không. Tôi ngạc nhiên, vì bệnh nhân tỉnh táo đi lại trong bệnh viện, đang đứng trước mặt tôi thì làm sao não chết được, bệnh nhân chỉ không nói được. Tôi lấy tay cào vào da đầu của bệnh nhân, ông biết đau né tránh, tôi nói với người nhà bệnh nhân là ông ta không có bệnh não chết. Họ nói bệnh viện nói não chết không chữa được, cứ nằm trong bệnh viện sống được ngày nào hay ngày ấy. Thật vô lý, họ nói tôi chữa được không, tôi nói được.

Sau đó tôi và bệnh nhân cùng với chồng và con gái ngồi ngoài vườn, bà ngắm cảnh nhìn trời, tay chân cử động được nhưng chưa nói được. Bỗng nhiên đến chiều bác sĩ trưởng khoa đến.
Chắc y tá gọi cho bác sĩ trưởng khoa đang ở nhà nói bệnh nhân này tỉnh rồi đang ngồi xe lăn ở ngoài vườn, ông ta vào lại không mừng, mà có vẻ không bằng lòng, bảo y tá cho bà về phòng xong, ộng mới đến cửa phòng gõ cửa, tôi nhìn bảng tên của bác sĩ là KIM, chắc cõ lẽ là người đại hàn, không chào lại tôi mà nói xin mời chồng bà ra văn phòng nói chuyện.
Bác sĩ trưởng khoa tưởng tôi là thầy truyền đạo đến làm phép cầu nguyện theo nghi thức tôn giáo chứ không biết là đến chữa bệnh. Bác sĩ nòi với chồng bà, nếu ngày mai tôi còn thấy bác sĩ này (là tôi) đến chữa bệnh bất hợp pháp tôi sẽ mời cảnh sát.
Ông chồng hỏi tôi bây giờ phải làm sao. Tôi nói bà tỉnh rồi chỉ cỏn tê liệt thì xin về nhà tôi mới chữa tiếp được. Ông nói dễ mà, nhưng không dễ, bác sĩ hỏi ông đã hỏi bảo hiểm y tế bằng lòng chưa, hỏi họ thì họ nói chỉ bảo hiểm ở bệnh viện này thôi. Ông khiếu nại nói vợ tôi khỏi hôn mê rồi, chỉ còn tê liệt nên phải cho vợ ông xuất viện hay đi bệnh viện khác chữa tê liệt. Bác sĩ trả lời bệnh nhân không bị tê liệt mà vẫn còn tình trạng người thực vật, nên tôi không được phép vào bệnh viện này nữa.
Khi về nhà, Ông bảo với tôi chị vợ có 2 bệnh viện tư, tôi gặp bà chủ biệt thự hỏi sao bà không đem em gái của bà về bệnh viện của bà, Bà nói luật ở đây khó lắm, bệnh viện này không cho ra thì không bệnh viện nào được nhận.
Sáu tháng sau bà được xuất viện chồng bà mời tôi sang để chữa tê liệt tôi nói bây giờ thì trễ rồi, ngay lúc vừa tỉnh thì tôi chỉ dạy cho cách đi 1 tuần là đi được, còn bây giồ chân tay co quắp phải châm cứu và phải chữa thời gian lâu thì tôi không bỏ phòng mạch của tôi ở Montreal mà đi lâu được, ông mời các thầy châm cứu ơ Mỹ chữa cho củng được.

3-Bé bị hôn mê tại bác sĩ.
Bé ăn uống khỏe mạnh bình thường, khi bé mọc răng bị sốt cao, vào bệnh viện, bác sĩ không hỏi nguyên nhân, thầy đường huyết cao tiêm ngay insulin làm bé hôn mê mà vẫn còn sốt, vì không hỏi nguyên nhân tại sao bé sốt, vì khi mọc răng thì sốt là bình thường, gan tự động chuyển hóa đường cao để tăng cường hệ miễn nhiễm chống bệnh, thay vì chữa sốt lại không chữa lại làm hạ đường huyết, có đáng bị lấy bằng hành nghề không.

4-Tây y không biết chữa parkinson.
Theo đông y chức nang gan chủ gân và các sợi thần kinh, gan tàng huyết, tàng hồn và điều chỉnh cân bằng đường huyết, cung cấp máu đủ đường đi nuôi các tế bào trong cơ thể. Đường bảo vệ thần kinh, thư giãn thần kinh không bị co rút co quắp, co giật, động kinh, nếu cơ thể thiếu đường, kiêng đường, không ăn đường và chất ngọt, nên gan phải tự động rút đường trong não, trong gân cốt xương tủy làm đường cao tăng vọt để đủ đường bảo vệ tim và phổi hoạt động duy trì sự sống, như vậy nguyên nhân là thiêu đường chức năng chuyển hóa suy yếu, lại không bổ thêm đường mà lại tiêm thuốc hạ đường nên bệnh càng ngày càng nặng, chắc các sĩ chưa học bài chức năng chuyển hóa của gan rồi.

Chúng ta rút được bài học gì trong bài này là :
Tim cần đường, suy tim do thiếu đường, mẹ nó là gan phải cứu con huy động hết đường trong cơ thể để cứu con, nên dù không ăn đường mà đường huyết vẫn tăng vọt làm cơ thể mất đường sụt cân, phải bổ sung đường chứ không phải tiêm insulin làm hạ mất thêm đường là giết người mà mọi bác sĩ vẫn đang áp dụng

(tiếp tục Phần 5)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO Á

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 7 Tháng 4 05, 2025 12:11 pm

PHẦN 5 A
74 LOẠI THỰC PHẨM KIỀM CÓ 5 CHẤT QUAN TRỌNG CHỮA BỆNH
CALICIUM, MANGAN, SẮT, KALI, MAGNE1SIUM
https://youtu.be/-oDxOU01eU8

&&&&&&&&&&&

A-CÔNG DỤNG CHỮA BỆNH CỦA 4 CHẤT QUAN TRỌNG TRONG THỰC PHẨM :

I-CALCIUM
1-Công dụng chữa bệnh của calcium
Calcium là một khoáng cần vitamin D để hấp thụ nó từ thực phẩm. Nó đóng vai trò chính trong sức khỏe của xương và răng.Nò là một chất dinh dưỡng quan trọng đóng vai trò trong các chức năng của cơ thể để lưu thông máu, vận động cơ và giải phóng hormone. calcium cũng giúp truyền tải thông điệp từ não đến các bộ phận khác của cơ thể.Nó làm cho xương của bạn chắc khỏe và dày đặc. Bạn có thể coi xương là kho dự trữ calcium của cơ thể. Nếu cơ thể không nạp đủ calcium trong chế độ ăn uống, cơ thể sẽ lấy calcium từ xương.
Khi cơ thể không sản xuất calcium, phải bổ sung calcium từ thức ăn từ sữa như sữa, phô mai và sữa chua rau xanh đậm như cải xoăn, rau bina và bông cải xanh đậu trắng cá mòi bánh mì, ngũ cốc, sản phẩm từ đậu nành và nước cam tăng cường calcium và cần vitamine D để hấp thụ calcium, có trong cá hồi, lòng đỏ trứng và một số loại nấm.
Ánh nắng mặt trời là nguồn cung cấp vitamin D tốt nhất của. Da tự nhiên sản xuất vitamin D khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Những người có làn da sẫm màu không sản xuất vitamin D, vì vậy có thể cần bổ sung để tránh tình trạng thiếu hụt.
Calcium có thể làm giảm các triệu chứng của hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS). có lượng calcium và magnesium hấp thụ thấp hơn và nồng độ trong huyết thanh thấp hơn.
Viện Y tế Quốc gia (NIH)cho biết người lớn nên bổ sung 1.000 mg mỗi ngày. Đối với phụ nữ trên 50 tuổi và trong thời kỳ mang thai và cho con bú cần 1.200 mg mỗi ngày.
Đối với người lớn, quá ít calcium có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh loãng xương, tức là xương yếu và xốp dễ gãy. Loãng xương đặc biệt phổ biến ở phụ nữ lớn tuổi, đó là lý do tại sao NIH khuyến cáo họ nên tiêu thụ nhiều calcium hơn nam giới.
Calcium rất cần thiết cho trẻ em khi chúng lớn lên và phát triển. Trẻ em không nhận đủ calcium có thể không phát triển hết chiều cao tiềm năng của mình hoặc mắc các vấn đề sức khỏe khác.
Thưa calcium bị táo bón, đầy hơi, chướng bụng, làm nguy cơ tăng sỏi thận, làm lắng đọng chất vôi trong máu gọi là tăng calcium huyết, làm tăng áp huyết thiếu calcium

2-Những thưc phẩm có hàm lượng calcium cao như :
Cỏ xạ hương 189 % , Thì là 93%, Mè 99%, Hạt CHIA 63%, Cỏ lúa mì 43%, Rau mầm cỏ linh lăng 32%, Hạnh nhân,và Đậu lanh hạt lanh 36%, Bạc hà, Đậu hũ 20%, Húng quế 18%.

II-MANGAN
1-Công dụng chữa bệnh của mangan :
Mangan là một khoáng chất vi lượng cung cấp chất chống oxy hóa, hỗ trợ sức khỏe xương, giảm lượng đường trong máu, chuyển hóa axit amin, cholesterol, glucose và carbohydrate. Nó cũng đóng vai trò trong quá trình hình thành xương, giống như vitamin K giúp đông máu làm lành vết thương ngăn ngừ làm mất nhiều máu do vết thương hở và giảm viêm.
Cơ thể con người không thể tự sản xuất ra mangan, mà hấp thụ mangan từ chế độ ăn uống và lưu trữ nó trong gan, tuyến tụy, xương, thận và não
Mangan giúp hình thành một loại enzyme chống oxy hóa gọi là superoxide dismutase (SOD). Chất chống oxy hóa bảo vệ cơ thể khỏi các gốc tự do, là các phân tử phá hủy hoặc làm hỏng các tế bào trong cơ thể, làm giảm tình trạng viêm liên quan đến bệnh viêm màng phổi, bệnh viêm ruột và bệnh vẩy nến.
Là chất liên kết calcium với vitamine D, làm giảm lượng đường trong máu vì mangan giúp tuyến tụy sản xuất ra nhiều insulin.
Một lượng nhỏ mangan có trong nhiều loại thực phẩm, bao gồm:
Trái thơm sống và nước ép dứa, đậu pinto, quả hồ đào, đậu lima, rau bina, đậu navy, trà đen và xanh, khoai lang, hạnh nhân, yến mạch ăn liền, cám nho khô, bánh mì nguyên cám, đậu phộng, gạo lứt,
Trẻ sơ sinh có thể nhận được mangan từ sữa mẹ và sữa công thức từ sữa hoặc đậu nành.
Ngộ độc mangan trong môi trường luyện kim và hàn, hít phải mangan, cơ thể sẽ chuyển trực tiếp chất này lên não gây ra bệnh co giật như bệnh parkinson có dấu hiệu khó đi lại, co thắt cơ ở mặt, run rẩy, cáu kỉnh, hung hăng, ảo giác, giảm chức năng phổi, ho hoặc viêm phế quản cấp.
Tuy nhiên, một số người có nguy cơ cao gặp phải phản ứng độc hại với mangan, bao gồm:
Trẻ sơ sinh, trẻ em, người mắc bệnh gan, người thiếu sắt,
2-Những thưc phẩm có hàm lượng mangan cao như :
Cỏ lúa mì 20000%,, Cỏ xạ hương 393%, Thì là 167%,, Lúa mì khorasan 143% , Đậu lanh, hạt lanh 124%, Hạt mè 125%, Hạnh nhân 114%, Hạt Chia 108%, Hạt hướng dương 97%, Tỏi 87%, Dừa 75%. Đậu lăng 67%, Kiều mạch 65%, Húng quế 57%, Bạc hà 56%. Nước cốt dừa 46%, cải pó xôi 45%, rau dền 43

III-SẮT
17 Lợi ích đáng ngạc nhiên của Sắt
tác giả Meenakshi Nagdeve cập nhật lần cuối - 29 tháng 1 năm 2020
1-Công dụng chữa bệnh của chất sắt :
Chất sắt cung cấp oxy cho các hệ thống cơ quan thông qua vai trò của nó trong quá trình sản xuất tế bào hồng cầu. Khoảng 2/3 lượng sắt của cơ thể được tìm thấy trong hemoglobin. Các lợi ích sức khỏe khác bao gồm phòng ngừa và giảm thiếu máu (cả trong thời kỳ mang thai), các bệnh mãn tính, ho, thiếu máu trước khi chạy thận nhân tạo.
Sắt là thành phần protein thiết yếu cho quá trình trao đổi chất và cơ thể con người cần sắt để sản xuất hồng cầu. Cơ thể con người có khả năng dự trữ tới 25% sắt để sử dụng trong tương lai, đặc biệt là trong trường hợp chế độ ăn uống không đủ chất, đây là giải pháp dự phòng để giảm tác động của bệnh thiếu máu nếu lượng sắt hấp thụ đột ngột giảm.
Trong cơ thể chúng ta, khoảng 70% sắt có trong hemoglobin và myoglobin. Hemoglobin là chất vận chuyển oxy chính từ phổi đến các mô của cơ thể, trong khi myoglobin có trong các tế bào cơ và giúp chúng có thể tiếp nhận, lưu trữ, vận chuyển và giải phóng oxy. Khoảng 5% sắt được tìm thấy dưới dạng thành phần của nhiều loại protein khác nhau và là các yếu tố cần thiết trong một số phản ứng enzym.
Cuối cùng, có tới 25% sắt của cơ thể được lưu trữ trong ferritin, có trong các tế bào. Ferritin có thể dự trữ lượng sắt bổ sung đủ dùng trong ba năm cho nam giới, nhưng chỉ đủ dùng trong khoảng một năm cho phụ nữ, đó là lý do tại sao tình trạng thiếu máu phổ biến hơn ở phụ nữ. Vai trò và tầm quan trọng của khoáng chất này không thể bị đánh giá thấp, chủ yếu là vì sự thiếu hụt của nó rất khó chịu và nguy hiểm.

2-Những thưc phẩm có hàm lượng sắt cao như :
Cỏ lúa mì 1270%, Cỏ xạ hương 387%, Thì là 369%, hạt mè 82%, bạc hà 66 % , đậu lăng 42 % , mùi tây 34%, dầu lanh 32% , Hạt hướng dương 29%, lúa mì khorasan 25%% , Hạnh nhân 21%, húng quế 18%, bồ công anh 17%, tảo bẹ 16%, cải pó xôi 15%, đậu nành 14%, dừa, đậu lima, đậu hải quan 13 % , Rau dền, măng tây, kiều mạch 12% , ngò, tỏi tây, củ cải thụy sĩ 10% , hẹ, tỏi, nước cốt dừa, cải xoăn, đậu hà lan, đậu hũ 9%
Sắt có trong cả thực phẩm chay và không chay, được phân loại tương ứng là heme hoặc không heme. Các loại đậu, đậu lăng, đậu nành, ngũ cốc nguyên hạt, rau lá xanh, ngũ cốc, bánh mì, rau bina, củ cải, giá đỗ, bông cải xanh và trái cây khô cũng có hàm lượng sắt tốt. Bạn cũng có thể bổ sung sắt từ viên nén và thực phẩm bổ sung, mà bác sĩ thường khuyên bệnh nhân thiếu máu nên dùng. Các loại thực phẩm có hàm lượng vitamin C tốt cũng có thể hỗ trợ cơ thể hấp thụ sắt. Ví dụ, ăn một chiếc bánh mì kẹp thịt có lát cà chua có thể thúc đẩy quá trình hấp thụ sắt không heme từ bánh mì kẹp thịt. Trái cây họ cam quýt và nước ép như nước cam cũng có thể giúp hấp thụ sắt.
3-Thực phẩm bổ sung vitamin B12 tốt nhất:
Vitamin B12 là một chất dinh dưỡng thiết yếu cho sức khỏe tốt. Một số nguồn vitamin B12 tốt nhất bao gồm thịt, cá, trứng, thực phẩm tăng cường và thực phẩm bổ sung. Bạn cũng nên hạn chế hoặc tránh uống rượu.
Vitamin B12 là một loại vitamin tan trong nước, rất quan trọng đối với quá trình hình thành tế bào hồng cầu, chức năng thần kinh và tổng hợp DNA.
Thiếu vitamin B12 có thể dẫn đến thiếu máu, cũng như các triệu chứng thần kinh và tâm thần.
.Sau đây là danh sách các nguồn thực phẩm tốt :
hàu, nghêu, cá hồi, cá ngừ đóng hộp, thịt bò, sữa chua ít béo, sữa ít béo, ức gà tây, trứng,
a-Đối với người ăn chay :
Ngũ cốc ăn sáng, men dinh dưỡng, đồ uống đậu nành, sữa ít béo, sữa thực vật tăng cường, pho mát, trứng, ngũ cốc tăng cường, men dinh dưỡng,
Mặc dù rong biển, tảo và một số loại nấm đều chứa một lượng nhỏ vitamin B-12
Người ăn chay nên đảm bảo tiêu thụ đủ các loại thực phẩm sau đây một cách thường xuyên. Điều quan trọng là phải hiểu lượng vitamin B-12 mà những thực phẩm này chứa:
8 ounce (oz) sữa chua chứa khoảng 1,1 mcg vitamin B-12
1 cốc sữa ít béo có thể cung cấp 1,2 mcg vitamin B-12
1 oz phô mai Thụy Sĩ có thể chứa 0,95 mcg vitamin B-12
1 quả trứng lớn chứa 0,6 mcg vitamin B-12
Ngũ cốc tăng cường là một lựa chọn tốt vì chúng có khả dụng sinh học cao. Điều này có nghĩa là vitamin B-12 không phải bị phân hủy trước khi cơ thể hấp thụ.
Men dinh dưỡng được cả người ăn chay và thuần chay ưa chuộng vì dễ thêm vào các món ăn trong khi nấu và có hương vị béo ngậy, thơm ngon như phô mai. Men dinh dưỡng có thể được thêm vào các bữa ăn đã nấu chín hoặc rắc lên thức ăn và đồ ăn nhẹ.
Để sử dụng men dinh dưỡng, một người có thể: rắc lên bỏng ngô, trộn vào sốt phô mai, trộn vào khoai tây nghiền, rắc lên trứng rán hoặc đậu phụ, khuấy vào súp kem, thêm vào các món mì ống, cho vào salad,
Người lớn và thanh thiếu niên: 2,4 microgam (mcg) mỗi ngày
Trẻ em từ 9 đến 13 tuổi: 1,8 mcg mỗi ngày
Trẻ em từ 4 đến 8 tuổi: 1,2 mcg mỗi ngày
Trẻ mới biết đi từ 1 đến 3 tuổi: 0,9 mcg mỗi ngày
Trẻ sơ sinh từ 7 đến 12 tháng tuổi cần 0,5 mcg B-12 mỗi ngày và trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi chỉ cần 0,4 mcg mỗi ngày.
Phụ nữ mang thai cần 2,6 mcg, trong khi phụ nữ cho con bú cần 2,8 mcg mỗi ngày.

b-Các triệu chứng thiếu sắt
Thiếu sắt thường có thể gây ra tình trạng mệt mỏi nghiêm trọng, cơ thể suy nhược và các bệnh lý sức khỏe khác. Những người thiếu sắt không thể thực hiện các chức năng bình thường theo cách tối ưu. Hơn nữa, phụ nữ và trẻ em cần nhiều sắt hơn nam giới và tình trạng thiếu máu ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến họ. Tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng có thể gây ra các bệnh về da tiến triển khiến móng tay giòn và vùng lưỡi trở nên mịn màng hơn. Các quá trình enzym cần sắt và protein sẽ không xảy ra và quá trình trao đổi chất của cơ thể có thể chậm lại hoặc thậm chí ngừng lại. Thiếu máu được coi là tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng phổ biến nhất trên toàn cầu.

c-Các triệu chứng thường gặp của tình trạng thiếu vitamin B-12 bao gồm:
Thiếu vitamin B-12 có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe của một người. Các vấn đề thường gặp liên quan đến tình trạng thiếu vitamin B-12 bao gồm thiếu máu, một số rối loạn thần kinh và chậm phát triển và chữa lành.
Tổn thương thần kinh, yếu và mệt mỏi, cảm giác ngứa ran ở tay và chân, tê, mờ mắt, sốt, đổ mồ hôi, khó đi lại, các vấn đề về hệ tiêu hóa, lưỡi đau hoặc loét miệng, khó thở, cảm thấy ngất xỉu hoặc chóng mặt, trầm cảm, thay đổi tâm trạng, suy giảm trí nhớ, khả năng phán đoán và hiểu biết, da nhợt nhạt, chán ăn, ù tai (tiếng chuông, tiếng vo ve hoặc tiếng rít trong tai)
Nếu không duy trì đủ lượng vitamin B-12, một người có thể bị các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm tổn thương thần kinh và trầm cảm.
Vì không có thực phẩm có nguồn gốc thực vật nào chứa vitamin B-12, nên người ăn chay trường và người ăn chay nên biết về các nguồn thay thế, chẳng hạn như các sản phẩm tăng cường như dưới đây :
Đánh giá y khoa lần cuối vào ngày 22 tháng 12 năm 2020

d-Lợi ích của sắt đối với sức khỏe
Thúc đẩy quá trình hình thành hemoglobin
Sự hình thành hemoglobin là chức năng chính của khoáng chất này. Không chỉ vậy, vì nó là một phần của hemoglobin, nó hỗ trợ vận chuyển oxy đến các tế bào cơ thể. Hemoglobin bổ sung cực kỳ quan trọng vì con người có xu hướng mất máu theo nhiều cách khác nhau, thông qua các chấn thương, cả bên trong và bên ngoài. Đáng chú ý nhất là phụ nữ mất một lượng máu đáng kể mỗi tháng trong những năm kinh nguyệt, đây là một trong những lý do chính khiến phụ nữ có nhiều khả năng bị thiếu máu hơn nam giới.
Cải thiện chức năng cơ cơ bắp và giúp cung cấp nguồn oxy cần thiết cho sự co cơ, thiếu sắt cơ bắp sẽ mất đi độ săn chắc và độ đàn hồi; yếu cơ là một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất của tình trạng thiếu máu Tăng cường phát triển não, sắt hỗ trợ cung cấp oxy trong máu và não sử dụng khoảng 20% oxy trong máu, nên nó liên quan trực tiếp đến sức khỏe não bộ và các chức năng của não. Lưu lượng máu thích hợp trong não có thể kích thích hoạt động nhận thức và giúp tạo ra các con đường thần kinh mới để ngăn ngừa các rối loạn nhận thức, do đó, lượng sắt hấp thụ và quá trình oxy hóa não sau đó là rất cần thiết
Thiếu sắt là một trong những nguyên nhân gây ra hội chứng chân không yên. Nồng độ sắt trong máu thấp là nguyên nhân chính gây ra tình trạng này
Sắt là chất hỗ trợ quan trọng cho việc điều hòa nhiệt độ cơ thể. Một sự thật thú vị là sắt có khả năng tự điều hòa theo khả năng hấp thụ của cơ thể. Giữ nhiệt độ cơ thể ổn định có nghĩa là các chức năng trao đổi chất và enzym có thể diễn ra trong môi trường và nhiệt độ tối ưu và hiệu quả nhất của chúng
Một trong những lợi ích quan trọng nhất của sắt đối với sức khỏe là sắt hoạt động như một chất mang oxy và do đó tham gia vào quá trình vận chuyển oxy từ tế bào này sang tế bào khác. Đây là chức năng quan trọng của sắt, vì oxy là yếu tố cần thiết cho mọi hệ thống cơ quan để thực hiện các chức năng thường xuyên

e-Giảm thiếu máu
Sắt có tác dụng trong việc điều trị một chứng rối loạn nghiêm trọng gọi là thiếu máu do thiếu sắt, là hậu quả của tình trạng thiếu sắt trong cơ thể con người. Đây chính là nguồn gốc của hầu hết những lợi ích sức khỏe này, là kết quả của việc ngăn ngừa căn bệnh khủng khiếp này ảnh hưởng đến hàng triệu người trên khắp thế giới. Thiếu máu là tình trạng thiếu hụt dinh dưỡng phổ biến nhất trên hành tinh
Sắt cũng giúp chống lại các chứng rối loạn mãn tính như thiếu máu do suy thận và các bệnh mãn tính khác của hệ thống đường ruột và bài tiết. Những bệnh này không nhất thiết liên quan đến máu, giống như hầu hết các chức năng khác của sắt, nhưng sắt vẫn là một phần quan trọng của nhiều quá trình cần thiết trong toàn bộ hệ thống cơ thể, không chỉ hệ tuần hoàn.
Sắt cũng có thể biểu hiện lợi ích sức khỏe của nó trong việc chữa bệnh thiếu máu xảy ra ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai hoặc kinh nguyệt. Các tế bào hồng cầu mới phải thay thế các tế bào đã mất, vì vậy, việc tiêu thụ một lượng lớn sắt là cần thiết đối với phụ nữ vào những thời điểm đó trong cuộc đời.
Nó tham gia tích cực vào quá trình tổng hợp một số chất dẫn truyền thần kinh thiết yếu như dopamine, norepinephrine và serotonin. Các chất hóa học này đóng vai trò chính trong các hoạt động khác nhau liên quan đến tế bào thần kinh và não người.
Các chuyên gia y tế cho rằng sắt có khả năng làm giảm một dạng thiếu máu khác gọi là thiếu máu trước khi chạy thận.
Lợi ích sức khỏe của sắt cũng bao gồm việc loại bỏ tình trạng mệt mỏi mãn tính hoặc không rõ nguyên nhân, có thể xảy ra ở cả nam và nữ. Thiếu sắt là nguyên nhân tự nhiên gây ra mệt mỏi vì sắt là thành phần quan trọng của hemoglobin.
Sắt đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sức mạnh cho hệ thống miễn dịch. Do đó, cơ thể đủ khả năng chống lại một số bệnh tật và nhiễm trùng. Các tế bào hồng cầu cần thiết để cung cấp oxy cho các mô, cơ quan và tế bào bị tổn thương. Nếu không có sắt, sẽ không có hemoglobin; nếu không có hemoglobin, sẽ không có oxy. Quá trình chữa lành cần có chất dinh dưỡng thiết yếu này.
Sắt là thành phần quan trọng nhất của nhiều hệ thống enzym và các thành phần quan trọng khác như myoglobin, cytochrome và catalase. Nếu không có chức năng này, một số hệ thống cơ quan sẽ chậm lại.
Sắt có tác dụng làm giảm các triệu chứng mất ngủ và cải thiện thói quen ngủ của mọi người bằng cách điều chỉnh nhịp sinh học của họ. Số lượng hồng cầu thích hợp cũng có thể làm giảm sự dao động của
huyết áp, điều này thường khiến mọi người mất ngủ vào ban đêm.
Sắt, khi được tiêu thụ với số lượng đủ, có thể giúp cải thiện khả năng tập trung và tăng cường hiệu suất nhận thức. Tăng lưu lượng máu đến não là kết quả của lợi ích quan trọng này.

g-Tại sao người ăn chay cần tập trung vào protein
Protein có trong các tế bào trên khắp cơ thể và đóng vai trò trong hầu hết các chức năng chính của cơ thể. Vai trò của nó bao gồm duy trì cơ và xương, hỗ trợ hệ thống miễn dịch và vận chuyển oxy trong máu.
Theo Viện Hàn lâm Khoa học, Kỹ thuật và Y học Quốc gia, lượng protein khuyến nghị trong chế độ ăn uống (RDA) là 56 gam (g) đối với nam giới trưởng thành và 46 g đối với nữ giới trưởng thành. Tuy nhiên, phụ nữ đang mang thai hoặc cho con bú có RDA là 71 g protein.

Một cách khác để xem xét nhu cầu protein là xem xét lời khuyên của Viện Dinh dưỡng và Chế độ ăn kiêng, họ nêu rằng mỗi ngày, mọi người cần ăn 0,4 g protein cho mỗi pound trọng lượng cơ thể. Họ nói thêm rằng người ăn chay có thể được hưởng lợi khi ăn 0,5 g protein cho mỗi pound trọng lượng cơ thể vì protein thực vật ít tiêu hóa hơn một chút.
Danh sách các loại thực phẩm thuần chay giàu protein

h-Các loại thực phẩm thuần chay sau đây là nguồn cung cấp protein tốt:
Đậu phụ,sữa đậu nành,bánh mì kẹp đậu nành,đậu lăng,seitan hoặc gluten lúa mì,hạt bí ngô,quinoa,đậu đen,đậu pinto,đậu thận đỏ, đậu mắt đen, đậu gà, đậu xanh, bơ đậu phộng, hạnh nhân, bơ hạnh nhân, bánh mì nguyên cám, mì ống, bulgur, gạo lứt, rau bina, súp lơ xanh, nấm, atisô, yến mạch, edamame, măng tây, Thực phẩm có vitamin B-12 và D
Cơ thể cần vitamin B-12 để tạo ra các tế bào hồng cầu và duy trì hoạt động bình thường của hệ thần kinh.
Loại vitamin này cũng rất cần thiết cho sự phát triển thần kinh khỏe mạnh ở trẻ sơ sinh.
RDA đối với vitamin B-12 là 2,4 microgam (mcg) một ngày cho nam và nữ từ 14 tuổi trở lên. Đối với phụ nữ mang thai, RDA là 2,6 mcg và đối với phụ nữ đang cho con bú, RDA là 2,8 mcg.

IV-KALI

1-Công dụng cũa Kali Sulphuricum đối với cơ thể.
Kali được phát hiện bởi Tiến sĩ Wilhelm Heinrich Schüßler, còn được gọi là kali sulfat, là một trong mười hai loại muối thiết yếu trong liệu pháp vi lượng đồng căn. chúng được cho là hỗ trợ quá trình chữa lành tự nhiên của cơ thể bằng cách giúp duy trì sự cân bằng tế bào và giữ cho các tế bào hài hòa. có khả năng cải thiện quá trình vận chuyển oxy trong cơ thể như một chất mang oxy giúp cơ thểđưa oxy cần thiết đến đúng nơi.
Nó thường được khuyên dùng cho các tình trạng ảnh hưởng đến niêm mạc, chủ yếu là khi có dịch tiết màu vàng đặc như viêm phế quản, hen suyễn, các vấn đề về xoang hoặc thậm chí một số vấn đề về da hoặc tiêu hóa, thì phương thuốc này có thể hữu ích .
Nó hoạt động khi các triệu chứng di chuyển khắp cơ thể. hì phương thuốc này cũng giúp kiểm soát tình trạng đó.

2-Thành phần hóa học của Kali Sulphuricum
Bạn có thể thắc mắc Kali Sulphuricum chính xác được làm từ gì. Vâng, đó là sự kết hợp của kali và sunfat, và tin tôi đi, đây không phải là bất kỳ hóa chất ngẫu nhiên nào. Chúng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì cơ thể cân bằng và khỏe mạnh.
Kali giống như một chất đa nhiệm trong cơ thể chúng ta, điều chỉnh sự cân bằng chất lỏng, tín hiệu thần kinh và thậm chí cả chuyển động cơ. Trong liệu pháp vi lượng đồng căn, thành phần chính này được cho là có thể làm được nhiều hơn thế nữa, chẳng hạn như giúp các tế bào nhận được oxy cần thiết để hoạt động bình thường.
Sulfate cũng có vai trò riêng của nó. Nó hỗ trợ các quá trình trao đổi chất của chúng ta, chủ yếu giúp giải độc cơ thể. Nói một cách đơn giản hơn, nó giúp phân hủy các chất độc, quan trọng hơn ở gan. Trong liệu pháp vi lượng đồng căn, sunfat được cho là giúp làm sạch chất nhầy dư thừa và giảm viêm. Vì vậy, khi bạn đang phải chiến đấu với chất nhầy đặc, màu vàng (chúng ta đều đã từng trải qua điều đó), thì đây chính là lúc Kali Sulphuricum phát huy tác dụng.

Do những đặc tính có lợi này, phương thuốc này chủ yếu được sử dụng cho các tình trạng như nhiễm trùng và viêm. Nó giúp lưu thông oxy và hỗ trợ giải độc các tế bào của cơ thể.
Chuẩn bị Kali Sulphuricum
Trong liệu pháp vi lượng đồng căn, Kali Sulphuricum được chuẩn bị bằng một phương pháp gọi là tiềm hóa. Điều này có nghĩa là phương thuốc được pha loãng và lắc đi lắc lại nhiều lần để làm cho nó hiệu quả hơn. Những người theo phương pháp vi lượng đồng căn tin rằng điều này sẽ kích hoạt năng lượng chữa bệnh của phương thuốc, mặc dù nồng độ vật lý thực tế của chất này gần như không tồn tại.

Đầu tiên, kali sulfat được hòa tan trong cồn hoặc nước cất để tạo thành cồn thuốc mẹ, đây là dạng thuốc mạnh nhất. Sau đó, cồn thuốc này được pha loãng nhiều lần theo tỷ lệ cụ thể, chẳng hạn như 1:10 (thang D) hoặc 1:100 (thang C). Càng pha loãng và lắc nhiều thì càng mạnh.
Sản phẩm cuối cùng có thể có nhiều nồng độ khác nhau, như 6X hoặc 200C tùy thuộc vào nhu cầu của người bệnh. Điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù lượng kali sunfat thực tế là rất ít vào cuối cùng, nhưng liệu pháp vi lượng đồng căn tin rằng năng lượng của phương thuốc là thứ tạo nên tác dụng.

Kali Sulphuricum
Phiên bản cô đặc của Kali Sulphuricum là thuốc mẹ được làm từ kali sunfat hòa tan trong rượu và nước. Nó giống như nền tảng mà từ đó tạo ra tất cả các hiệu lực vi lượng đồng căn khác của Kali Sulphuricum. Các bác sĩ hiếm khi sử dụng trực tiếp thuốc mẹ, nhưng đây là điểm khởi đầu để chuẩn bị các phương thuốc pha loãng hơn, sau đó được điều chỉnh để điều trị các tình trạng cụ thể.

3-Thực phẩm có nhiều Kali
Cỏ lúa mì 84%, Rau mầm cỏ linh lăng 79%, Thì là 51%, Đậu lăng 27%, Dầu lanh hạt lanh, Cỏ xạ hương 23%, Hạnh nhân 20%. Hạt hướng dương 18%, Cải pó xôi, Mùi tây 16,% Đậu nành, Đậu Lima, Ngò 15%, Khoai lang, Hạt mè, Quả bơ dầu quả bơ 14%, Lúa mì Khorasan, Khoai tây mới, Bạc hà, Kiều mạch 13%, Gừng 12%, Củ cải Thụy sĩ, Bồ công anh, Tỏi, Sà lách rocket 11%, Bí đao, Dừa 10%,

4-Lợi ích của Kali Sulphuricum trong chữa bệnh :
Kali Sulphuricum giống như một công cụ đa năng trong thế giới vi lượng đồng căn. Nó giúp ích cho một số tình trạng sức khỏe khác nhau. Sau đây là một số lợi ích chính:

a-Phân phối oxy:
Kali Sulphuricum rất tốt trong việc giúp cơ thể bạn cung cấp oxy cho các tế bào, điều này rất quan trọng để phục hồi, chủ yếu là khi có tình trạng viêm.

b-Sức khỏe làn da:
Nếu bạn đang phải vật lộn với các tình trạng như bệnh chàm, bệnh vẩy nến hoặc bất kỳ vấn đề nào về da với tình trạng bong tróc hoặc tiết dịch màu vàng, thì phương thuốc này có thể là một lựa chọn tốt. Nó giúp bạn chữa lành da và giảm viêm

c-Giảm hô hấp:
Kali Sulphuricum là một chất long đờm tự nhiên, có nghĩa là nó giúp làm sạch chất nhầy và tắc nghẽn từ phổi ngực và cải thiện hơi thở.. Nếu bạn đang phải vật lộn với bệnh viêm phế quản, hen suyễn hoặc nhiễm trùng xoang, phương thuốc này có thể mang lại sự giải tỏa rất cần thiết. Nó chủ yếu hữu ích khi xử lý chất nhầy màu vàng đặc và cứng đầu.

d-Hỗ trợ tiêu hóa:
Đối với những người đang phải vật lộn với chứng đầy hơi, khó tiêu hoặc tiêu chảy, Kali Sulphuricum giúp cơ thể bạn giải độc và hỗ trợ tiêu hóa tốt hơn.

e-Phục hồi sốt và các tình trạng liên quan đến nhiệt:
Nó cũng rất tốt để điều trị sốt, chủ yếu là khi các triệu chứng liên tục thay đổi. và cảm thấy một ngày là đau đầu, ngày hôm sau là đau họng, Kali Sulphuricum giúp cân bằng nhiệt độ cơ thể và tăng tốc độ phục hồi. bằng cách cân bằng nhiệt độ bên trong cơ thể, Kali Sulphuricum giúp bạn phục hồi nhanh hơn và cảm thấy khỏe hơn sớm hơn. phù hợp với cả tình trạng cấp tính và mãn tính.

g-Liều dùng Kali Sulphuricum
Các biện pháp vi lượng đồng căn thường có sẵn ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào mức độ pha loãng của thuốc. Liều dùng Kali Sulphuricum phù hợp tùy thuộc vào tình trạng và nhu cầu của từng người. Bây giờ, chúng ta hãy phân tích liều dùng cho người lớn và trẻ em.
Liều dùng Kali Sulphuricum cho người lớn
Liều dùng Kali Sulphuricum thông thường cho người lớn có thể khác nhau và tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. Sau đây là một số hướng dẫn chung:

Các triệu chứng nhẹ: Thường được khuyến nghị dùng mức độ thấp hơn, chẳng hạn như 6X hoặc 6C. Bạn có thể uống 3-5 viên sau mỗi 2-3 giờ, điều này sẽ giảm tần suất khi các triệu chứng được cải thiện.
Các triệu chứng từ trung bình đến nặng: Đối với các tình trạng nghiêm trọng hơn, có thể sử dụng loại có hiệu lực cao hơn như 30X hoặc 30C. Liều lượng thường duy trì ở mức 3-5 viên, nhưng bạn có thể uống chúng sau mỗi 4-6 giờ. Khi bạn thấy sự cải thiện, bạn nên giảm tần suất dùng thuốc.
Luôn nhớ một điều với các biện pháp vi lượng đồng căn: Tốt nhất là ngừng dùng thuốc khi các triệu chứng bắt đầu cải thiện. Quá liều không phải là vấn đề đáng lo ngại như với các loại thuốc thông thường, nhưng liều lượng không cần thiết cũng không có ích.

Liều lượng Kali Sulphuricum cho trẻ em
Nếu chúng ta nói về trẻ em, liều lượng Kali Sulphuricum nói chung là giống nhau về hiệu lực, nhưng tần suất dùng thuốc có thể thấp hơn. Sau đây là cách thức hoạt động:
Các triệu chứng nhẹ: Hiệu lực 6X hoặc 6C thường được sử dụng. Bạn có thể cho trẻ uống 3 viên sau mỗi 4 giờ, điều này sẽ giảm tần suất khi trẻ bắt đầu cảm thấy khỏe hơn.

h-Ai nên tránh dùng Kali Sulphuricum?
Các loại thuốc vi lượng đồng căn thường an toàn vì chúng được pha loãng, nhưng vẫn có một số điều cần lưu ý khi dùng Kali Sulphuricum.
Những người nhạy cảm với Kali Sulfat: Nếu bạn đã biết mình bị nhạy cảm hoặc dị ứng với kali sulfat, tốt nhất là nên tránh dùng Kali Sulphuricum. Mặc dù lượng chất này rất ít nhưng một số người vẫn có thể có phản ứng.

Phụ nữ mang thai hoặc cho con bú: Mặc dù các loại thuốc vi lượng đồng căn thường an toàn, nhưng bạn nên tham khảo ý kiến của chuyên gia chăm sóc sức khỏe trước khi dùng bất kỳ loại thuốc nào trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú.
Trẻ em dưới 2 tuổi: Đối với trẻ rất nhỏ, đặc biệt là trẻ sơ sinh, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ nhi khoa hoặc bác sĩ vi lượng đồng căn trước khi sử dụng bất kỳ phương thuốc nào bao gồm Kali Sulphuricum.
Các tình trạng sức khỏe mãn tính: Nếu bạn có bất kỳ tình trạng sức khỏe tiềm ẩn nào hoặc đang dùng thuốc theo toa, bạn nên trao đổi với bác sĩ trước khi bắt đầu dùng phương thuốc vi lượng đồng căn để tránh mọi tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra.
i-Tác dụng phụ khi sử dụng Kali Sulphuricum
Các phương thuốc vi lượng đồng căn như Kali Sulphuricum được pha loãng rất nhiều, có nghĩa là tác dụng phụ rất hiếm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, mọi người có thể gặp phải tình trạng các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn tạm thời ngay sau khi dùng phương thuốc. Đây được gọi là cơn khủng hoảng chữa bệnh và thường được coi là dấu hiệu cho thấy phương thuốc đang có hiệu quả. Nếu điều này xảy ra với bạn, bạn có thể giảm liều lượng hoặc tần suất, hoặc chỉ cần đợi cho đến khi các triệu chứng thuyên giảm.

V-MAGNESIUM
Magnesium là khoáng chất dồi dào thứ tư trong cơ thể bạn. Cơ thể bạn không thể hoạt động bình thường nếu thiếu nó.
Chất dinh dưỡng này rất cần thiết cho hàng trăm quá trình trao đổi chất và nhiều chức năng quan trọng khác của cơ thể, từ sản xuất năng lượng đến xây dựng các protein quan trọng.
1-Công dụng chữa bệnh của magnesium :
Mọi điều cần biết về thực phẩm bổ sung magnesium
Bổ sung đủ magnesium có thể hỗ trợ sức khỏe giấc ngủ và cải thiện tâm trạng. Nó cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và các cơn đau nửa đầu.
Mgnesium cho hơn 300 phản ứng enzym. Thiếu hụt có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
Mặc dù magnesium có trong nhiều loại thực phẩm, nhưng các chất bổ sung có thể mang lại lợi ích, đặc biệt là đối với những người hấp thụ ít. Nó giúp cải thiện sức khỏe trong các bệnh tiểu d9u77o2ng, tim mạch, be65nhma61t rí nhớ, xơ vữa động mạch.
Nếu cơ thể thiếu hụt magnesium, cần bổ sung viên Magnesium liều cao :
a-Chữa bệnh mất ngủ :
3 nghiên cứu ở người lớn tuổi cho thấy việc bổ sung 320 đến 720 mg magnesium mỗi ngày trong tối đa 8 tuần giúp giảm thời gian đi vào giấc ngủ và tăng tổng thời gian ngủ so với giả dược. đặc biệt là người lớn tuổi, ngủ nhanh hơn và ngủ lâu hơn.
b-Giảm áp huyết :
Đánh giá năm 2021 của 7 nghiên cứu liên quan đến việc bổ sung liều lượng 300 mg magnesium trở lên mỗi ngày trong ít nhất 12 tuần với mức giảm 5,78 mm Hg huyết áp tâm thu và giảm 2,5 mm Hg huyết áp tâm trương ở những người tham gia mắc bệnh tiểu đường loại 2.
c-Giảm lượng đường trong máu.
Có thể có lợi cho việc kiểm soát lượng đường trong máu
Magnesium đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa insulin và glucose.
Nhiều người mắc bệnh tiểu đường loại 2 Trusted Source, một tình trạng ảnh hưởng đến lượng đường trong máu, bị thiếu magnesium vì lượng đường trong máu cao hoặc mức insulin cao có thể làm tăng lượng chất dinh dưỡng này bị mất qua nước tiểu.
Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng việc bổ sung magnesium có thể cải thiện tình trạng kháng insulin, một vấn đề chuyển hóa trong đó các tế bào của bạn không phản ứng đúng với insulin.
Insulin là một loại hormone giúp điều chỉnh lượng đường trong máu của bạn và việc cải thiện tình trạng kháng insulin có thể thúc đẩy việc kiểm soát lượng đường trong máu tốt hơn, đặc biệt là ở những người mắc bệnh tiểu đường.
d-Chữa bệnh trầm cảm do thiếu magnesium.
Một số nghiên cứu liên kết mức magnesium thấp với chứng trầm cảm và điều này khiến các nhà nghiên cứu tự hỏi liệu việc bổ sung khoáng chất này có thể giúp điều trị tình trạng này hay không.
Theo đánh giá năm 2023 về các nghiên cứu Trusted Source, việc bổ sung magnesium có thể giúp giảm các triệu chứng trầm cảm ở người lớn mắc chứng rối loạn trầm cảm.
e-Chứng đau nửa đầu :
Thiếu hụt magnesium có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng đau nửa đầu, một tình trạng thần kinh đặc trưng bởi chứng đau đầu dữ dội, tái phát kèm theo các triệu chứng khác.
Mặc dù cần nhiều nghiên cứu hơn nữa, liều dùng hàng ngày từ 400 đến 600 mg Trusted Source magnesium có thể giúp ngăn ngừa chứng đau nửa đầu ở những người bị thiếu magnesium. Liều dùng này cao hơn một chút so với giá trị khuyến nghị do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA)Trusted Source cung cấp.
Đánh giá năm 2018 Trusted Source của 5 nghiên cứu cho thấy rằng điều trị chứng đau nửa đầu bằng liều lượng magnesium cao 600 mg là an toàn và hiệu quả.
g-Phản ứng phụ.
Mặc dù các chất bổ sung magnesium thường được coi là an toàn, không gặp tác dụng phụ,nhưng quá liều sẽ có tác dụng phụ như tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa,
Bạn có thể hấp thụ đủ lượng khoáng chất được khuyến nghị hàng ngày chỉ thông qua chế độ ăn uống. Lượng này là 400 đến 420 mg đối với nam giới và 320 đến 360 mg đối với nữ giới. Tuy nhiên, nhiều chế độ ăn hiện đại lại thiếu thực phẩm giàu magnesium.

2-Thực phẩm có chứa nhiều magnésium
Dầu lanh, hạt lanh 98%, Thì là 92%, Hạt mè 89% Hạt hướng dương 81%, Hạnh nhân 67%, Kiều mạch 58%, Cỏ xạ hương 55%, Lúa mì Khorasan 34%, Đậu lăng 31%, Tảo bẹ 30%, Cỏ lúa mì 28%, Cải pó xôi, Củ cải Thụy sĩ 20%, Húng quế, Bạc hà, Diêm mạch quinoa 16%, Đậu nành 15%, Đậu hải quân 13%, Đậu xanh, Mùi tây, Đậu đỏ 12%, Gừng, Đậu Lima, Kê 11%, Đậu Hà lan 10%, Nước cốt dừa, Đậu hũ 9%,

(tiếp tục Phần 5B...)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO Á

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 7 Tháng 4 05, 2025 12:30 pm

PHẦN 5B.
B-CÁCH CHỌN THỨC ĂN CHỮA BỆNH THAY CHO THUỐC

https://youtu.be/1gJnB8Fk9TE

1-HẠNH NHÂN VÀ SỮA HẠNH NHÂN :
a-Thành phần chính :
Những loại hạt thơm ngon này luôn được xếp hạng trong danh sách những thực phẩm tốt cho sức khỏe nhất và chúng cũng là một loại thực phẩm có tính kiềm. Hạnh nhân có liên quan đến sức khỏe não bộ tốt hơn, mức cholesterol thấp hơn và tăng cường giảm béo.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :
calcium: 26%
Mangan: 114%
Sắt: 21%
Kali: 20%
magnesium: 67%

b-Công dụng của hạnh nhân trong y học cổ truyền
Hạt hạnh nhân có vị đắng, tính ấm và hơi độc, thường được sử dụng để:
Trị ho và viêm họng:Hạt hạnh nhân giúp làm dịu cơn ho, giảm viêm và khàn tiếng. Đây là lựa chọn phổ biến để điều trị các bệnh liên quan đến đường hô hấp như viêm phế quản, viêm họng.
Giảm táo bón và nhuận tràng:Hạnh nhân có tính nhuận tràng, giúp kích thích tiêu hóa và giảm táo bón, đặc biệt hiệu quả ở người cao tuổi.
Hỗ trợ điều trị hen suyễn:Nhờ khả năng bình suyễn và tuyên phế, hạnh nhân giúp cải thiện chức năng phổi, giảm các triệu chứng khó thở.
Chữa đầy bụng, chướng hơi:Hạnh nhân được sử dụng để điều trị các triệu chứng đầy hơi, chướng bụng, cải thiện khả năng hấp thụ dinh dưỡng.
Bên cạnh đó, hạnh nhân còn được dùng để điều hòa cholesterol, tốt cho tim mạch và hỗ trợ phụ nữ mang thai.
c-Công dụng của hạnh nhân trong y học hiện đại
Trong y học hiện đại, hạnh nhân được đánh giá cao nhờ các thành phần dinh dưỡng phong phú và các lợi ích sức khỏe mà nó mang lại. Dưới đây là những công dụng nổi bật của hạnh nhân:
Ngăn ngừa bệnh tim mạch:Hạnh nhân giàu chất béo không bão hòa đơn, giúp giảm mức cholesterol xấu (LDL) và tăng cholesterol tốt (HDL), từ đó giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch.
Hỗ trợ kiểm soát lượng đường trong máu:Nhờ chứa hàm lượng magie cao, hạnh nhân giúp điều chỉnh lượng đường trong máu, cải thiện tình trạng kháng insulin, hỗ trợ phòng ngừa và kiểm soát bệnh tiểu đường loại 2.
Giúp giảm cân và kiểm soát cân nặng:Với hàm lượng chất xơ cao và ít carbs, hạnh nhân giúp tạo cảm giác no lâu, giảm cảm giác thèm ăn và hỗ trợ quá trình giảm cân an toàn.
Cải thiện sức khỏe não bộ:Hạnh nhân chứa nhiều vitamin E và các chất chống oxy hóa giúp bảo vệ tế bào thần kinh, hỗ trợ ngăn ngừa các bệnh lý về não như Alzheimer.
Giảm nguy cơ ung thư:Các chất chống oxy hóa trong hạnh nhân giúp chống lại các gốc tự do, ngăn ngừa sự hình thành và phát triển của tế bào ung thư.
Hỗ trợ tiêu hóa:Chất xơ trong hạnh nhân giúp cải thiện hệ tiêu hóa, giảm các triệu chứng táo bón và đầy bụng.
Giúp hạ huyết áp:Lượng magie dồi dào trong hạnh nhân còn giúp điều hòa huyết áp, giảm nguy cơ cao huyết áp và các biến chứng liên quan như đột quỵ, suy thận.
Như vậy, hạnh nhân là một loại thực phẩm giàu dinh dưỡng với nhiều công dụng tuyệt vời cho sức khỏe tổng thể, đặc biệt là trong việc phòng ngừa và hỗ trợ điều trị các bệnh mãn tính

2-RAU DỀN
a-Thành phần chính :
Đây là loại hạt không còn xa lạ với nhiều người. Nó là một bổ sung tuyệt vời cho bất kỳ kế hoạch ăn kiêng tập trung vào kiềm nào. Ngoài việc là một loại thực phẩm tạo kiềm, nó còn được biết đến với hàm lượng protein tương đối cao đối với một loại ngũ cốc, đồng thời chứa đầy đủ các vitamin và khoáng chất cần thiết cho sức khỏe tổng thể.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g ):
calcium: 5%
Mangan: 43%
Sắt: 12%
Kali: 4%
magnesium: 16%

Rau dền chứa các thành phần như ngũ cốc với đa dạng chất dinh dưỡng. Cụ thể, trong khoảng 246g rau dền nấu chín sẽ cung cấp:

Calo: 251g
Carbs: 46g
Chất đạm: 9.3 gam
Chất béo: 5.2 gam
Magie: 40 %
Mangan: 105 %
Sắt: 29 %
Photpho: 36 %
Selen: 19 %
Đồng: 18 %
Trong đó, hàm lượng mangan dồi dào có vai trò quan trọng đối với chức năng não bộ và ngăn ngừa một số tình trạng thần kinh. Ngoài ra, các chất chiếm tỉ lệ cao như magie, sắt, photpho đều là khoáng chất thiết yếu với cơ thể con người.
b-Công dụng của rau dền trong y học cổ truyền
Theo y học cổ truyền, rau dền đỏ có vị ngọt, tính mát, giúp thanh nhiệt, làm mát máu, kích thích tiểu tiện, kháng khuẩn, điều trị nhiệt lỵ, mụn nhọt.
Rau dền chứa nhiều Vitamin E, Kali, Magie, Photpho và chất xơ, giúp giảm cholesterol, kiểm soát huyết áp cao, ngăn ngừa ung thư, cải thiện hệ tiêu hóa.
Giúp cải thiện tiêu hóa:Rau dền đỏ 1 nắm, sau khi nhặt sạch và rửa, luộc sôi trong 3 phút, sau đó trộn với dầu vừng hoặc bột vừng đen, có thể kết hợp với cơm hoặc dùng nấu canh, đặc biệt hữu ích trong trường hợp táo bón.
Hỗ trợ điều trị cao huyết áp:Rau dền đỏ 20g, lá mã đề non 20g, lá dâu bánh tẻ 20g. Rửa sạch, nấu canh với gia vị hợp khẩu vị, sử dụng hàng ngày trong 10 ngày.
Giải nhiệt và làm dịu ngứa do huyết nhiệt:Rau dền đỏ 20g, kim ngân hoa 12g, ké đầu ngựa 16g, cam thảo đất 16g. Sắc nước uống hàng ngày, chia làm 2 lần, trong 10 ngày.
Chữa kiết lỵ do nhiệt:Rau dền đỏ 20g, lá mơ lông 20g, rau sam 20g, cam thảo đất 16g. Sắc nước uống hàng ngày, chia làm 2 lần, trong 10 ngày. Hoặc dùng rau dền đỏ luộc chín, ăn cả nước, mỗi ngày khoảng 20g, trong vài ngày sẽ hồi phục.
Giúp giảm nhiệt và tăng cường tiêu hóa sau sinh:Dền đỏ 50g, thái khúc sau khi rửa sạch, nấu với gạo nếp thành cháo, sử dụng hàng ngày trong 5 ngày.
Thanh nhiệt, kích thích tiêu hoá:Dền đỏ 100g, dền cơm 50g, rau dệu 50g, ngọn lá mảnh cộng 50g hoặc rau đay, nấu với bột canh, bột tôm hoặc nước cua.
Chữa nọc rắn: Theo kinh nghiệm dân gian, lấy lá rau dền giã nát uống nước và bã đắp để chữa nọc rắn.
Lưu ý:Rau dền có tính mát, không phù hợp cho người bị tiêu chảy mạn tính và phụ nữ có thai bị hư hàn.
Chống oxy hóa Tương tự công dụng của hạt chia, các nghiên cứu đã chỉ ra rau dền là nguồn cung cấp dồi dào chất chống oxy hóa và tăng cường sức khỏe hiệu quả. Mặt khác, hợp chất thực vật axit phenolic bao gồm p-hydroxybenzoic, axit gallic và axit vanillic cũng hoạt động tương tự nhằm chống lại các gốc tự do gây hại. Ngoài ra, hợp chất thực vật này cũng ngăn ngừa đáng kể bệnh ung thư và bệnh tim.

Giảm viêm Khi cơ thể gặp thương thích hoặc nhiễm trùng sẽ xuất hiện phản ứng miễn dịch bình thường là viêm. Tuy nhiên, nếu không xử lý dứt điểm tình trạng này sẽ chuyển thành viêm mãn tính gây các bệnh nghiêm trọng như rối loạn tự miễn dịch, ung thư,…
Giống như tác dụng của hoa cúc chi, Rau dền có hoạt chất gây ức chế sản xuất ra immunoglobulin E – một loại kháng thể liên quan chứng viêm dị ứng. Đồng thời, trong loại rau này cũng chứa chuỗi peptit có khả năng làm giảm sưng và ngăn chặn sự tấn công của các gốc tự do.
Người bị bệnh gút, viêm khớp hoặc gặp các vấn đề về viêm nên bổ sung rau dền.

Giảm Cholesterol
Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh rau dền có hoạt chất làm giảm lượng cholesterol xấu LDL và tăng cholesterol tốt HDL trong máu. Từ đó ngăn ngừa và hạn chế các bệnh liên quan đến tim mạch.
Giảm nguy cơ loãng xương
Trong rau dền, lượng canxi cao gấp 2 lần so với sữa và 3 lần so với rau bó xôi. Do đó, đây được xem là siêu thực phẩm giúp hỗ trợ và tăng cường sự chắc khỏe của xương, giảm nguy cơ loãng xương.
Tác dụng của rau dền đỏ trong làm đẹp
Không chỉ mang lại lợi ích cho sức khỏe, dền đỏ còn là “trợ thủ đắc lực” cho chị em nếu muốn cải thiện làn da của mình. Sở hữu đa dạng các loại vitamin như B, C cùng khả năng chống oxy hóa ổn định, chỉ sau một thời gian sử dụng làn da sẽ trở nên trắng sáng rõ rệt.
Tuy nhiên, cũng giống như các loại “mỹ phẩm” làm đẹp từ thiên nhiên, hiệu quả còn tùy theo cơ địa mỗi người cũng như cần kiên trì dùng trong thời gian dài.
Để đảm bảo cơ thể hấp thu rau dền để tận dụng công dụng của rau dền nhật, công dụng của rau dền xanh, công dụng của rau dền cơm và tác dụng của cây rau dền đỏ ở trên, người ta sử dụng nó làm các món ăn hằng ngày
b-Công dụng của rau dền trong y học hiện đại
mỗi 100g rau dền cung cấp những chất gồm:
4g carbohydrate;
2g đạm;
2947 mg vitamin A;
0.027mg thiamine;
0.158mg riboflavin;
0.658mg niacin;
0.064mg axit pantothenic;
0.192mg vitamin B6;
85mg folate;
43.3mg vitamin C;
1140mg vitamin K;
215mg canxi;
0.162mg đồng;
2.23mg sắt;
55mg magie;
0.885mg mangan;
50mg phốt pho;
611 mg kali;
20mg natri;
0.9mg kẽm
Giảm nồng độ cholesterol trong máu:Người bị máu nhiễm mỡ, nồng độ cholesterol cao được khuyến cáo nên thêm rau dền vào bữa ăn hàng ngày bởi loại rau này kiểm soát cholesterol rất tốt. Hoạt chất tocotrienols và vitamin E trong rau dền kiểm soát cholesterol xấu, từ đó ngăn ngừa nguy cơ mắc bệnh tim, bệnh mạch vành,…
Kiểm soát tình trạng tăng huyết áp:Thành phần magie và kali có trong rau dền hỗ trợ các mạch máu giãn nở hiệu quả để đưa huyết áp ở mức ổn định, từ đó tránh tăng huyết áp
Tốt cho bệnh nhân tiểu đường:Một công dụng nữa của rau dền rất đáng nhắn đến, đó là khả năng giảm nguy cơ bị bệnh tiểu đường của loại rau này. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các hoạt chất chống oxy hóa trong rau giúp hạn chế tăng đường huyết, kiểm soát lượng đường trong máu.
Cải thiện hệ tiêu hóa:Rau dền là nguồn cung cấp chất xơ tuyệt vời cho cơ thể, cải thiện tình trạng táo bón kéo dài, đầy bụng,ợ ch,… sau khi ăn. Bên cạnh đó, hàm lượng chất xơ có trong rau dền còn hỗ trợ cân bằng hệ vi sinh đường ruột, từ đó giúp tiêu hóa khỏe mạnh hơn, tăng cường miễn dịch từ bên trong.
Ngừa bệnh thiếu sắt:Với những bệnh nhân bị thiếu máu do thiếu sắt, bác sĩ luôn khuyến khích thêm rau dền vào bữa ăn bởi trong loại rau này có chứa rất nhiều chất khoáng có lợi, đặc biệt là chất sắt hỗ trợ tái tạo hồng cầu.
Làm đẹp da:Ăn rau dền thường xuyên thực sự có thể giúp làn da khỏe đẹp hơn nhờ hàm lượng lớn chất chống oxy hóa cùng vitamin và chất khoáng mà loại rau này cung cấp cho cơ thể.
c-Những ai không nên ăn rau dền?
Tuy rằng rau dền có giá trị dinh dưỡng cao cùng nhiều tác dụng tốt cho sức khỏe nhưng không phải ai cũng ăn được loại rau này. Vậy ai không nên ăn rau dền? Những trường hợp dưới đây nên hạn chế ăn rau dền hoặc nếu ăn, chỉ nên ăn ít:
Phụ nữ mang thai:Thai phụ là đối tượng cần hết sức cẩn trọng khi ăn rau dền, đặc biệt là những mẹ bầu hư hàn, tránh bị tính mát cực mạnh của rau dền làm hại đến sức khỏe.
Người bị tiêu chảy:Ai không nên ăn rau dền? Những người đang bị tiêu chảy, thể hàn, dễ bị lạnh bụng,… thì không nên ăn quá nhiều rau dền hoặc ăn rau dền thường xuyên bởi loại rau này có tính mát, có thể khiến tình trạng tiêu chảy ngày một nặng hơn, ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe.
Người bị viêm khớp dạng thấp, bệnh gút, sỏi thận:Trong rau dền có chứa một lượng nhỏ chất acid oxalic gây ức chế cơ thể hấp thụ canxi, kẽm và một số chất khoáng khác, hậu quả là những chất khoáng này tích tụ lại tạo thành sỏi oxalat. Vì vậy, khi được hỏi ai không nên ăn rau dền, các bác sĩ khuyến cáo bệnh nhân bị bệnh khớp, sỏi thận, gout,… không nên ăn loại rau này.

3. ATISÔ
a-Thành phần chính :
Atiso thường được dùng trên món salad, hoặc trộn với nước chấm, nhưng có một số lý do khiến chúng trở thành một loại thực phẩm đặc trưng trong chế độ ăn uống của bạn. Một trong những lý do đó là tính kiềm của chúng, giúp nâng cao mức độ pH của cơ thể bạn. Atiso chứa nhiều chất chống oxy hóa, giúp thanh lọc gan, hỗ trợ tiêu hóa.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :

calcium: 2%
Mangan: 11%
Sắt: 3%
Kali: 8%
magnesium: 10%
b-Công dụng của Atiso trong y học cổ truyền
-Lá atiso có vị đắng, có tác dụng lợi tiểu, dùng để điều trị bệnh phù nề thấp khớp có nước trong đầu gối.
Hoa để ăn dùng làm thuốc thông tiểu, thông mật, chữa bệnh suy gan thận, viêm thận cấp tính và mạn tính, lọc máu, nhuận tràng cho người lớn và trẻ em.
Cụm hoa atisô dùng trong chế độ ăn kiêng cho các bệnh nhân tiểu đường vì trong đó có có một lượng nhỏ tinh bột và carbohydrate phần lớn có chứa insulin
c-Công dụng của rau dền trong y học hiện đại
Tác dụng dược lý : Dung dịch atiso tiêm tĩnh mạch tăng mạnh lượng mật bài tiết tránh mật bị đông đặc cứng thành sạc mật hay tắc mặt,
Uống và tiêm đều có tác dụng làm tăng lượng nước tiểu và thải urê, làm giảm nồng độ cholesterol máu và ure máu.
Atisô không độc nhưng khi mới uống làm tăng urê máu rồi mới bị thải theo nước tiểu


4-RAU XÀ LÁCH ARUGULA HAY XÀ LÁCH ROCKET

a-Thành phần chính :
Đây là một loại lá xanh thực sự đáng để tìm hiểu. Arugula thường được sử dụng như một phần của kế hoạch ăn kiêng giải độc và thực tế rằng nó là một loại thực phẩm có tính kiềm là một phần quan trọng trong số đó. Loại rau cực kỳ tốt cho sức khỏe này chứa đầy vitamin A và một lượng calcium ấn tượng.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :

calcium: 16%
Mangan: 16%
Sắt: 8%
Kali: 11%
magnesium: 12%

b-Những công dụng của rau rocket .
Rau rocket có tên khoa học là Arugula, thường được gọi là rau xà lách rocket. Rau này có hương vị đặc trưng là hang và cay. Arugula là một thành viên của họ Brassica hay Cruciferous, bao gồm hầu hết các loại rau họ cải. Xà lách rocket rất giàu vitamin A, vitamin C, ít calo, hàm lượng chất xơ cao. Đặc biệt chúng có sulforaphane có tác dụng chống lại bệnh ung thư mạnh mẽ. Loại rau này thường được dùng trong các món salad trộn. Đây là một món ăn không chỉ ngon miệng mà còn mang lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe. Dưới đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu về món salad rocket nhé.
Lá rocket rất giàu vitamin A, C và ít calo, hàm lượng chất xơ và chất sulforaphane trong lá giúp chống lại ung thư mạnh mẽ.Lá rocket rất tốt cho tim mạch
Hàm lượng vitamin K dồi dào trong rau rocket đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển xương
Rau rocket chưa nhiều nước (90%) giúp nó trở thành một loại rau xanh cấp nước cực tốt.
Rau rocket cũng có tác dụng hạ nhiệt cực đỉnh, là một món rau bạn không thể bỏ qua trong những ngày hè oi bức.
Ngoài ra, rau rocket còn có tác dụng thanh lọc cơ thể, giúp bạn luôn cảm thấy khỏe khoắn và tràn đầy năng lượng.
Rau rocket có nhiều lợi ích tuyệt vời cho sức khỏe con người nên loại rau này được rất nhiều người ưa chuộng và dung làm nguyên liệu để chế biến các món ăn thanh mát ngày hè như món salad rocket.

5-MĂNG TÂY
a-Thành phần chính :
Măng tây có tác dụng kiềm hóa cơ thể, và thực tế là nó là một trong những thực phẩm giàu kiềm nhất mà bạn có thể ăn. Mỗi loại thực phẩm được xếp hạng theo mức độ kiềm của nó, và măng tây là một trong những “con chó lớn” trong bảng xếp hạng đó. Nhưng nó còn mang lại nhiều hơn thế nữa, bao gồm chất chống oxy hóa , chất dinh dưỡng và nhiều thành phần giải độc. Măng tây thậm chí còn được phát hiện là có lợi ích chống lão hóa, đủ để hầu hết mọi người bắt đầu thêm nhiều măng tây vào bữa ăn của họ!

Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :
calcium: 2%
Mangan: 8%
Sắt: 12%
Kali: 6%
magnesium: 3%
kẽm, đồng
Vitamin A, C, E, K và B - B1, B2, B3 (niacin), B5 và,choline, một chất dinh dưỡng liên quan đến vitamin.

b-Công dụng của măng tây :
-Kiểm soát cân nặng, làm giảm cân, cường hệ miễn dịch. Giảm cholesterol, ngăn ngừa dị tật ống thần kinh ở trẻ sơ sinh
Măng tây cũng cung cấp flavonoid,chất xơ, protein và axit folic (rất hữu ích trong việc gặt hái những lợi ích của vitamin B12 và trong việc tạo ra các tế bào hồng cầu mới)., giàu chất chống oxy hóa
Măng tây có chứa hàm lượng cao axit amin asparagine làm lợi tiểu để giải chất muối dư thừa, ngăn ngừa việc nhiễm trùng đường tiểu. Vitamin E chống oxy hóa, vitamin B6 và folate tăng cường cảm giác hưng phấn tình dục,, acid amine bảo vệ tế bào gan khỏi các độc tố do rượu, chữa đầy hơi chướng bụng. Trong măng tây có 22% acid folic rất tốt cho thai kỳ cho những ai muốn mang thai, giảm nguy cơ sinh non. Acid folic và B12 và chất và acid amin tryptophan trong măng tây giúp ích cải thiện tinh thần trong chữa bệnh trầm cảm.
Nấu quá chín các vitamin sẽ mất đi vào nước.

6-QUẢ BƠ VÀ DẦU BƠ
a-Thành phần chính :
Bơ nằm trong danh sách thực phẩm có tính kiềm của chúng ta, nó chứa rất nhiều dinh dưỡng. Bơ có nhiều kali cũng như chất béo lành mạnh và ngoài việc giúp bạn có tính kiềm hơn, Bạn cũng có thể sử dụng dầu bơ có tính kiềm thay cho các loại dầu khác tạo acid trong cơ thể.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :
calcium: 1%
Mangan: 7%
Sắt: 3%
Kali: 14%
magnesium: 7%

b-Công dụng của quả bơ và dầu bơ
Bơ chứa Kali duy trì hoạt động của tim mạch làm giảm áp huyết và các cơn đau tim, ngừa đột quỵ, tăng mỡ tốt HDL giảm mỡ máu xấu LDL, trái bơ ăn với đường làm giảm cân vì có cảm giác no, có nhiều chất xơ hỗ trợ tiêu hóa đường ruột. Trái bơ ăn với rau răm chấm muối tiêu giống như ăn hột vịt lộn, chống các nếp nhăn da bị lão hóa khi dùng dầu bơ thoa trên da,
Bơ có khả năng làm tăng tính hấp thụ các chất chống oxy hóa và các vitamin A,D,E,K, bổ mắt làm giảm nguy cơ đục thủy tinh thể, thoái hóa điểm vàng, giảm nguy cơ ung thư, giảm ảnh hưởng của hóa xạ trị liệu trong tế bào lympho, giảm viêm khớp, chống lại bệnh hay quên mất trí nhớ, có chất boron chuyển hóa calci làm bổ xương, chất xơ trong quả bơ làm gỉảm đường huyết, chống viêm, chữa bệnh vẩy nến. Đánh nát quả bơ với qu3a trứng gà thành dung dịch hỗn hợp bôi lên chân tóc giữ ẩm 20 phút, sau đó gội đầu, làm lành vết thương với sinh tố bơ sữa. Quả bơ tốt cho bà bầu và thai nhi, không cần dùng thuốc tiểu đường thai kỳ.

7-HÚNG QUẾ
a-Thành phần chính :
Húng quế tình cờ là một gia vị tốt trong những loại giúp giữ kiềm cho bạn, và nó cũng có nhiều giá trị dinh dưỡng ấn tượng khác, chẳng hạn như flavonoid mà nó chứa. Những thứ này giúp cơ thể chữa lành và húng quế nói chung có thể giúp ích cho một số vùng khác nhau trên cơ thể.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :
calcium: 18%
Mangan: 57%
Sắt: 18%
Kali: 8%
magnesium: 16%

b-Công dụng của húng quế.
Chứa nhiều chất chống oxy hóa và tinh dầu hỗ trợ cho các tế bào beta của tuyến tụy phóng thích insulin làm giảm đường huyết, có chất eugenol bảo vệ tim mạch và ổn định áp huyết và giảm cholesterol, làm ngưng phát triển tế bào ung thư, cắt các cơn sốt do nhiễm khuẩn, và bệnh sốt rét khi uống nước sắc húng quế, ngừa stress căng thẳng, phân hủy sỏi thận tan nhỏ dần và biến mất trong 6 tháng, chữa viêm xoang, đau đầu, cảm lạnh, thông mũi cải thiện hô hấp.

8-CỦ DỀN
a-Thành phần chính :
Củ cải đường hiện đang được chú ý nhiều hơn bao giờ hết và nó là một trong nhữngloại thực phẩm có tác dụng giúp tăng mức độ pH của bạn. Lý do nó là một loại rau quan trọng cần có trong chế độ ăn uống của bạn là vì nó là một trong những nguồn cung cấp betalain dinh dưỡng thực vật duy nhất , có đặc tính chống viêm. Bạn có thể dùng củ dền để ăn kèm, dùng làm món trộn salad, cho vào sinh tố, hoặc thậm chí nướng bánh hạnh nhân với chúng! Hãy chắc chắn mua củ cải đường tươi và hấp chúng, vì loại ngâm chua đã làm giảm giá trị dinh dưỡng.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :

calcium: 2%
Mangan: 16%
Sắt: 4%
Kali: 9%
magnesium: 6%

b-Công dụng chữa bệnh của củ dền theo đông y :
Tính vị, công năng
Củ của cây củ dền vị ngọt, hơi đắng, tính hàn: có công năng thông tâm, khai vị, mạnh tỳ, hạ khi, bổ nội tạng, làm mát máu, thông huyết mạch, chống đau đầu, sườn hông căng tức, giải phong nhiệt độc, cầm máu, sinh tân.
Hạt củ dền vị đăng có công năng thanh nhiệt, lương huyết, làm ra mô hội.
Lá có công năng tiêu sưng viêm, lợi tiểu.
Công dụng
Củ dền là loại rau bổ dưỡng và tạo năng lượng, kích thích ăn ngon miệng, giải nhiệt, chữa kiết lỵ, đại tiện ra máu. Còn có tác dụng tốt cho người thiếu ngủ, người bị bệnh thần kinh, lao, ung thư, cảm cúm.
Hàng ngày dùng một cốc dịch củ (200 – 300g củ tươi, nghiền nát rồi ép lấy nước) uống trong một tháng có tác dụng bổ dưỡng.
Để chữa bệnh ôn nhiệt sốt cao, giã khoảng 200g củ dền tươi, vắt lấy nước cốt uống để giải giải khát, sốt. Cũng dùng như trên khi bị kiết lỵ, đại tiện ra máu. Để giải nhiệt mùa hè, dùng 100g củ hoặc cây củ dền luộc rồi ăn.
Nhân dân vẫn dùng củ dền như các loại rau củ để nấu ăn.
Chú ý:
Củ dền có tỉ lệ đường cao, cẩn thận trọng với người bị đái tháo đường
Người bị tiêu chảy không dùng được
Không dùng củ dền cho phụ nữ có thai.

c-Công dụng chữa bệnh của củ dền theo tây y :
-Bảo vệ chức năng gan loại bỏ các độc tố nhờ chất betacyanin giúp ngăn ngừa mệt mỏi, thư giãn thần kinh, kháng viêm-
-Giảm cân, có chất sắt bổ máu, hình thành các tế bào máu đỏ, tăng lượng oxy cho máu, bảo vệ tim mạch, ổn định áp huyết
-Làm hạ đường huyết, làm tan chất kết tụ calci vô cơ gây ra xơ vữa động mạch, giảm suy giãn tĩnh mạch
-Tăng cường miễn dịch, tăng cường chức năng não bộ ngừa parkinson, mất trí nhớ
-Ngừa ung thư phổi và da khi dùng nước ép củ dền

9-BÔNG CẢI XANH.
a-Thành phần chính :
Là một loại thực phẩm có tính kiềm tốt cho sức khỏe. Bông cải xanh là một trong những loại rau có rất nhiều giá trị dinh dưỡng và rất nhiều lợi ích đối với sức khỏe của chúng ta, vì vậy nó đã trở thành món ăn chính trên các món ăn của người phương Tây qua nhiều thế hệ. Đó là một lựa chọn nhanh chóng, dễ dàng để hấp hoặc xào như một trong những món rau của bạn vào bất kỳ bữa ăn nào trong tuần.
Số liệu thống kê hàng đầu (trên 100g) :
calcium: 5%
Mangan: 10%
Sắt: 4%
Kali: 9%
magnesium: 5%

b-Công dụng chữa bệnh của bông cải xanh.
1. Chứa nhiều vitamin, khoáng chất và các hợp chất sinh học
Bông cải xanh chứa nhiều vitamin C, vitamin K,vitamin B 9(Folate) và một số khoáng chất như Kali, Phốt-pho và Selen.
Bông cải xanh có thể ăn tươi hoặc nấu chính, hấp chín là phương pháp giúp bảo tồn được các chất dinh dưỡng tốt nhất.
Tuy vậy, việc hấp chín hay ăn tươi đều cung cấp lượng tốt cho cơ thể. Khoảng 78g bông cải xanh nấu chín sẽ cung cấp 84% nhu cầu năng lượng tối thiểu cho cơ thể.

2. Chứa những chất chống oxy hóa có tác dụng , bảo vệ tế bào mắt, giảm viêm, giảm đường huyết
Giúp bảo vệ các tế bảo khỏi những tổn thương do các gốc tự do gây ra, giúp giảm viêm và bảo vệ cơ thể chống lại một số bệnh lý. giảm lượng đường trong máu, giảm cholesterol, bảo vệ những tế bào mắt khỏi tổn thương oxy hóa
3. Bông cải xanh có tác dụng chống lại một số bệnh ung thư
Bông cải xanh đã được nghiên cứu cho thấy tác dụng giảm nguy cơ ung thư ở một số cơ quan như ung thư vú, tuyến tiền liệt, dạ dày, thận, bàng quang.
4.Giảm mỡ máu xấu.
Việc sử dụng bông cải xanh trong bữa ăn cho thấy không chỉ làm giảm đáng kể nồng độ triglyceride và LDL cholesterol mà còn tăng nồng độ HDL cholesterol có lợi. Điều này giúp loại bỏ các nguy cơ về bệnh tim mạch cũng như xơ vữa mạch máu, giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim
5.Chất xơ trong bông cải xanh giúp chức năng tiêu hóa, lợi khuẩn dễ đại tiện ngừa táo bón
6. Cải thiện giảm quá trình lão hóa, sa sút trí tuệ và tăng cường chức năng thần kinh não bộ
7. Tăng cường hệ miễn dịch thông qua tác dụng của vitamin C,cơ thể cần mỗi ngày 100 – 200mg vitamin C giúp ngăn ngừa một số bệnh nhiễm trùng.
8-Bảo vệ răng nhờ vitamin C và calcium, chữa bệnh nha chu, bông cải xanh có chứa sulforaphane giảm ung thư miệng họng, có thêm vitamin K bảo vệ xương, chữa viêm xương khớp,bảo vệ da chống tia cực tím của ánh nắng
của cơ thể. Hợp chất sulforaphane có trong bông cải xanh cũng giúp ngăn ngừa viêm xương khớp.
9-Nhóm vitamin B, B9 giúp phát triển thần kinh thai nhi đề phòng dị tật ống thần kinh thai nhi
10-Khám phá mới năm 2023 của các nhà nghiên cứu chất sulforaphane chữa bệnh tự kỷ, đã được chứng minh là cải thiện hành vi và ngôn ngữ ở trẻ tự kỷ—mang đến cho các gia đình một giải pháp thay thế vô hại cho thuốc chữa được bệnh xơ cứng teo cơ một bên (ALS)
Súp broccoli bông cải xanh chữa bá bệnh, tiêu hóa, tim mạch, tiểu đường, tiêu viêm, bổ não... Dùng 1kg bông cải xanh nấu với 1 lít nước như nấu canh cho ít muối nhạt, bột nêm, nấu chín, rồi bỏ vào máy xay sinh tố cho 1 miếng bơ, thành súp. Chia 2 uống hết trong ngày.(KCYĐ)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: SO SÁNH NHỮNG NGHIÊN CỨU BỆNH LÝ LIÊN QUAN ĐẾN 3 SỐ ĐO Á

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 2 Tháng 4 14, 2025 2:17 pm

PHẦN 6.
KHÁM PHÁ MỚI VỀ LOẠI ĐƯỜNG NÀO CHUYỂN HÓA TỐT CHO SỨC KHỎE
https://youtu.be/ubvoZpPY0BY
--------------------

Đường trong thức ăn tây y gọi là Carbohydrate (hay còn gọi tắt là carbs) bao gồm 3 loại đường là glucose, fructose, và galactose.
Theo phân tích của tây y, trong thức ăn, có 3 loại đường khi vào cơ thể được chuyển hóa thành monosaccharides, disaccharide và polysaccharide, sau đó mới được chuyển hóa thành glucose, nhưng không phải chuyển hóa ngay tức khắc cùng lúc mà có thời gian nhanh chậm khác nhau, gọi là sự chuyển hóa đường trong cơ thể.là một loại chất dinh dưỡng đa lượng, tạo năng lượng, sức khỏe tiêu hóa và kiểm soát lượng đường trong máu, chính là thức ăn hàng ngày của mọi người từ nhiều loại thực phẩm có chứa carbs, bao gồm tinh bột trái cây, ngũ cốc, đậu và rau. mà cơ thể bạn cần với số lượng lớn.

1- Carbs đơn giản hay đường đơn chỉ được tạo ra từ một đơn vị đường, khi vào cơ thể bị phân hủy chúng thành monosaccharides là một trong 3 loại, glucose, hay fructose, hay galactose. hay được tạo ra 2 đơn vị đường khi vào cơ thể bị phân hủy thành disaccharides là sucrose (gồm glucose+fructose), hay maltose (gồm glucose+glucose), hay lactose (gồm glucose+galactose từ trái cây và sữa). để chúng có thể được hấp thụ và sử dụng làm năng lượng

2- Carbs tinh chế hay đường tinh chế ít lành mạnh hơn chứa nhiều đường đơn như xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao và đường ăn, ví dụ về thực phẩm và đồ uống có nhiều đường đơn bao gồm kẹo, soda, ngũ cốc có đường và kem.

Đường đơn và đường tinh chế có nhiều calo nhưng ít chất dinh dưỡng quan trọng, dễ tiêu hóa nhanh khiến lượng đường trong máu tăng nhanh để tuyến tụy giải phóng insulin. Ăn nhiều loại này dễ bị béo phì gây ra bệnh tiểu đường và bệnh tim


3-Carbohydrate phức hợp hay đường phức hợp polysaccharides là loại đường lành mạnh được tạo thành từ nhiều đơn vị đường liên kết với nhau, khó phân hủy hơn, mất nhiều thời gian tiêu hóa nên đường huyết tan dần dần, khác với đường đơn đường huyết tan nhanh, nên ít bị bệnh tiểu đường.

Có 3 loại đường phức hợp là tinh bột, glycogen và chất xơ

a-Chất xơ không được cơ thể tiêu hóa như tinh bột, ngũ cốc, đường, nhưng chất xơ chúng giúp thúc đẩy sức khỏe tiêu hóa bằng cách cung cấp vi khuẩn có lợi cho đường ruột và giúp nhu động ruột thoải mái và đều đặn.

b-Tinh bột và chất xơ có sẵn trong ngũ cốc, trong thực phẩm như cơm gạo, các loại bột, đều được chuyển hóa thành glucose, đi vào máu, khi đường huyết trong máu thấp không đủ đường chuyển hóa thành năng lượng, thì gan điều tiết đường dự trữ glycogen có sẵn trong cơ bắp, trong gan để làm tăng lượng đường trong máu, còn đường huyết trong máu cao thì lại được chuyển hóa thành năng lượng dự trữ glycogen trong gan và cơ bắp.

Người nào ăn thực phẩm có nhiều đường phức hợp giầu chất xơ, ít bị bệnh mãn tính, bệnh tim mạch hay bệnh đường ruột, ngoài ra cảm thấy no như ăn nhiều cơm, ngũ cốc rau, củ quả có nhiều chất xơ thì cơ thể ít mỡ không bị bệnh mỡ máu cao, không bị bệnh tim mạch


II-Những khám phá mới :

1-Nhiệm vụ glycogen có sẵn trong cơ bắp và gan :

Chúng ta thường hiểu lầm là khi chúng ta ăn thức ăn là đường trong thức ăn biến thành đường huyết cao là sai, vì những đường trong thức ăn là đường phức hợp chưa được chuyển hóa ngay thành glucose, nên gan và tụy tạng phối hợp điều tiết đường dự trữ glycogen để chuyển hóa thức ăn gồm tinh bột như cơm gạo, protein, chât béo để chuyển hóa thành năng lượng ATP(Adenosine triphosphates), nếu trong thức ăn thiếu đường thì gan điều chỉnh glycogen trong gan và cơ bắp thành glucose theo máu đi nuôi các tế bào, sau đó đường trong thức ăn được chuyển hóa dần sau khi thức ăn tiêu hóa hết thì glucose dư thừa chuyển thành đường dự trữa glycogen cất trong gan và cơ bắp.


2-Nguồn creatine tự nhiên trong cơ thể

Creatine cũng có trong thực phẩm được hình thành tự nhiên trong cơ thể con người, chủ yếu ở gan, thận và tuyến tụy sản xuất, nhiệm vụ cung cấp năng lượng cho sự hoạt động cơ bắp, nó cùng với glycogen giúp tái tạo năng lượng ATP (adenosine triphosphates)
Trong cơ thể con người đã có sẵn đường dự trữ glycogen trong cơ bắp và trong gan, để gan và tụy tạng điều chỉnh lượng đường trong máu, còn các loại đường trong thức ăn được chuyển hóa dần thành glucose theo thời gian rồi được chuyển hóa thành năng lượng dự trữ glycogen, cho nên từng phút từng giây chúng luôn luôn được chuyển hóa thành năng lượng ATP để duy trì sức khỏe

a-Khi cơ bắp hoạt động nhiều thì gan tuyến tụy và thận phải cung cấp đủ glycogen và creatine, như vậy lượng đường huyết glucose trong cơ thể sẽ hao hụt, phải được bổ sung đường từ thức ăn, để cơ thể duy trì ổn định đường huyết cho tim phổi hoạt động duy trì sự sống và đủ đường chuyển hóa thành năng lượng ATP duy trì sức khỏe cho tế bào, và cho trọng lượng cơ bắp không bị hao hụt.


b-Khi cơ thể kiêng đường, mà cơ bắp vẫn hoạt động, tim phổi vẫn cần phải duy trì sự sống cho cơ thể, vẫn cần phải sản xuất năng lượng ATP, mà không bổ sung đường trong thức ăn, hoặc thức ăn không có đường, hoặc do thuốc hạ đường, thì cơ thể phải rút đường trong cơ bắp làm trọng lượng cơ bắp giảm, sụt cân thì cơ bắp dư thừa creatine sẽ bị đào thải xuống thận thành creatinine, cho đến khi trong nước tiểu có mức creatinine cao thì có nghĩa chức năng lọc thận suy giảm phải bị lọc thận.
Khám phá mới ở đây là dù teo cơ bắp, giảm cân, nhưng gan, tụy, thận, ngày nào cũng phải rút đường dự trữ trong cơ thể để duy trì lượng đường trong máu nuôi tim phổi thì đo đường huyết vẫn cao, là một báo động cho cơ thể cần phải bổ sung đường phức hợp trong thức ăn để bù đắp lượng đường trong cơ thể bị mất đã làm cho chúng ta bị sụt cân.
Đó cũng là nguyên nhân những ai nhịn ăn bỏ bữa, chóng mặt hay bị ngất xỉu hôn mê do không đủ đường lên não, nhưng người vẫn còn thịt cơ bắp, lúc đó cơ thể phải rút đường trong cơ bắp dần để tạo ra năng lượng ATP duy trì sự sống, khi cấp cứu phải bị tiêm insulin kích thích gan điều tiết glycogen tăng để tái tạo năng lượng ATP duy trì sức khỏe cho tế bào não phục hồi, thì may mắn được phục hồi sự sống với cơ bắp tay chân gầy teo, cần phải phục hồi bầng cách ăn uống nhiều thực phẩm phức hợp, nhất là cơm, protein, lipid rau củ quả.
Ngược lại những người gầy ốm trong người không có glycogen dự trữ khi bị hôn mê, sau khi tiêm insulin thì cơ thể hết glycogen thì không sản xuất được năng lượng ATP duy trì hoạt động của tế bào não thì não chết, tim ngưng đập.

c-Đường phức hợp tốt nhất ổn định nhất mà không phải bị bệnh tiểu đường chính là tinh bột, cơm gạo, cho nên người xưa ăn mỗi bữa 3 bát cơm và chất béo, rau củ quả là đúng, không bị tiểu đường , còn máy đo đường huyết cao sau khi ăn chính là lượng đường glycogen chuyển đổi ra glucose để chuyển hóa hết lượng thức ăn thành máu, thành năng lượng xong, khi dư thừa đường thì lại tái tạo cơ bắp làm tăng trọng lượng.


III-Các loại thực phẩm carbohydrate phức hợp nên ăn.

Như rau, trái cây và đậu là một cách dễ dàng để cải thiện sức khỏe. Có nhiều loại carbohydrate phức hợp để lựa chọn. Sau đây là một số ví dụ về carbohydrate phức hợp bổ dưỡng để bổ sung vào chế độ ăn uống hang ngày.


1-Ngũ cốc nguyên hạt

Ngũ cốc nguyên hạt là loại ngũ cốc chứa cả ba phần của hạt ngũ cốc , mầm hoặc lõi, nội nhũ hoặc lớp giữa và lớp ngoài cứng gọi là cám. vitamin và khoáng chất.

Quinoa, Yến mạch, Gạo lứt, Kê, Farro, Kiều mạch.

2-Các loại đậu :

Các loại đậu, như đậu và đậu lăng, là loại carbohydrate phức hợp chứa nhiều chất xơ, vitamin, khoáng chất và protein thực vật.
Đậu lăng, Đậu gà, Đậu đen, Đậu thận, Đậu Cannellini, Đậu Hà Lan,
Đậu Pinto.

Chế độ ăn nhiều đậu đã được chứng minh là có tác dụng bảo vệ chống lại các tình trạng sức khỏe như một số bệnh ung thư, tiểu đường loại 2 và các bệnh tiêu hóa.

3-Rau có tinh bột,

Khoai lang, Khoai tây, Bí ngô butternut, Củ cải đường, Bí ngô Acorn, Bí ngô Delicata, Củ cải đường,

4-Trái cây :

Trái cây là một trong những loại carbohydrate phức hợp ngon nhất có thể ăn. Chúng không chỉ ngọt mà còn giàu chất xơ, vitamin, khoáng chất và hợp chất thực vật có tác dụng bảo vệ. Trái cây, Quả việt quất, Táo, Cam, Chuối, Đào, Xoài, Dâu tây.

Một nghiên cứu năm 2022 cho biết vào năm 2019, chỉ có 12,3% ngườilớn ở Hoa Kỳ đạt được lượng trái cây khuyến nghị là 1,5 đến 2 cốc tương đương mỗi ngày. Không ăn đủ trái cây có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của bạn và làm tăng nguy cơ mắc một số tình trạng sức khỏe, đặc biệt là nếu bạn ăn thực phẩm chế biến nhiều thay vì trái cây.

5-Ngũ cốc tinh chế

Các sản phẩm ngũ cốc tinh chế như gạo trắng, bánh mì trắng và đồ ăn nhẹ như bánh quy giòn được làm từ bột mì tinh chế, có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp như chất xơ và khoáng chất.
Mặc dù thỉnh thoảng ăn carbohydrate tinh chế sẽ không ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, nhưng phần lớn carbohydrate trong chế độ ăn uống của bạn nên đến từ các nguồn phức hợp như rau, trái cây, đậu và ngũ cốc nguyên hạt.

6-Đường bổ sung

Đường ăn, xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao, mật ong và các loại đường bổ sung khác nên được giữ ở mức tối thiểu để có sức khỏe tối ưu.
Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ hiện khuyến cáo rằng nam giới và phụ nữ trưởng thành nên hạn chế lượng đường bổ sung không quá 9 thìa cà phê (38 gram) và không quá 6 thìa cà phê (25 gram) mỗi ngày. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia y tế cho rằng nên hạn chế thêm đường hơn nữa để giảm nguy cơ mắc các bệnh mãn tính.

7-Giảm thực phẩm và đồ uống có đường.

Đường bổ sung có trong nhiều loại thực phẩm, thậm chí là các sản phẩm mặn. Kẹo, kem phủ, bánh ngọt, bánh quy và soda là một số nguồn đường bổ sung rõ ràng nhất, nhưng sữa chua, nước sốt trộn salad, nước chấm và granola cũng có thể chứa nhiều đường.

8-Nên uống soda hay nước khoáng có ga, nước suối để giảm lượng đường trong máu cao.


Kết luận :

Đường phức hợp trong đó có tinh bột như cơm, protein, lipid rau củ quả tốt nhất, giàu chất xơ, thúc đẩy cảm giác no và có thể giúp duy trì cân nặng khỏe mạnh. Chúng tiêu hóa chậm hơn, có cảm giác chắc bụng no lâu hơn. Chúng ta bị hù dọa không được ăn cơm nhiều là sai, chính cơm chuyển hóa đường chậm làm ổn định đường huyết. Từ trước đến nay không ai ăn nhiều cơm mà bị mù mắt, cưa chân, lọc thận, mất trí nhớ…và khi ăn nhiều cơm canh rau củ quả thì không cần phải uống thêm đường hay phải uống thuốc hạ đường làm rối loạn đường huyết là làm cơ thể hao hụt nhiều năng lượng ATP gây ra sụt cân. Công dụng của đường phức hợp trong thức ăn là :

1-Điều chỉnh lượng đường trong máu ổn định không bị bệnh tiểu đường : Không giống như các loại đường đơn giản, carbs phức hợp làm tăng dần lượng đường trong máu. Sự ổn định này có lợi cho sức khỏe tổng thể và quản lý bệnh tiểu đường.

2-Sức khỏe về tiêu hóa: Carbs phức hợp, chẳng hạn như ngũ cốc nguyên hạt và các loại đậu, hỗ trợ tiêu hóa do hàm lượng chất xơ của chúng. Chúng hỗ trợ nhu động ruột thường xuyên và giảm táo bón.
3-Sức sống và tuổi thọ: Carbs phức hợp giàu chất dinh dưỡng góp phần mang lại sức sống và tuổi thọ tổng thể. Chúng cung cấp các vitamin, khoáng chất và chất xơ cần thiết.

4-Năng lượng duy trì: Tất cả các loại đường trong thức ăn vào cơ thể được chuyển đổi thành đường đơn giản Glucose, là nguồn nhiên liệu ưa thích của cơ thể. Carbs phức hợp cung cấp nguồn glucose ổn định, thúc đẩy mức năng lượng bền vững khi tình trạng kháng insulin ở mức tối thiểu.

(còn tiếp PHẦN 7)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 2 Tháng 4 14, 2025 2:18 pm

PHẦN 7.
PHÂN BIỆT ĐƯỜNG TRONG THỨC ĂN TỐT HAY XẤU QUA 3 SỐ ĐO AH 2 TAY VÀ ĐO ĐƯỜNG HUYẾT TRƯỚC KHI ĂN VÀ SAU KHI ĂN 30 PHÚT
https://youtu.be/bpl2PmwNh-4
Thức ăn hàng ngày của chúng ta đa dạng, và ăn theo nhiều phương pháp khác nhau, muốn biết cách ăn của mình có lợi hay hại, thì cần phải theo dõi kết quả trước khi ăn và sau khi ăn 30 phút để so sánh 3 số đo của áp huyết, đường huyết, nhiệt độ đo trên trán, là nhiệt độ của bao tử, đo ở đầu ngón tay út trái là nhiệt độ của tim, đo ở đầu ngón chân út trái là của thần kinh chức năng não.
I-Cách kiểm chứng các loại đường, để chọn loại đường chữa bệnh phù hợp với bệnh của mình
1-Sự hiểu lầm về đường.
Có nhiều người cho rằng tôi kiêng đường tuyệt đối không ăn đường không ăn ngọt hay bánh kẹo, sao tôi vẫn khỏe nên không bị bệnh tiểu đường. Đó là sự hiểu lầm về đường.
Vì bất cứ những thức ăn gì khi vào cơ thể đều được chuyển hóa thành năng lượng đường đi nuôi tế bào đúng với lý thuyết của tây y là thức ăn của các tế bào trong cơ thể được nuôi bằng 4 chất glucose, protein, lipid, oxy.
Nên tây y đã phân loại trong thức ăn có 3 loại đường là đường đơn monosaccharide, đường đôi disaccharide và đường phức hợp polysaccharide.
Nếu chúng ta chọn thực phẩm có đường phức hợp thì hoàn toàn không cần dùng đến đường đơn glucose suốt đời cơ thể vẫn khỏe mạnh mà không sợ bệnh tiểu đường, vì trong cơm có tinh bột đường vào cơ thể được chuyển hóa thành glucose.
Như vậy trong đường phức hợp có gì đặc biệt, chính là tinh bột đường,
là cơm gạo tốt hơn các loại đường khác.
Khi phân tích năng lượng đường, theo thông tin dinh dưỡng sau đây được USDA cung cấp cho 1 cốc (186g) gạo trắng hạt ngắn đã nấu chín, tương đương 2 bát cơm, thành phần bổ dưỡng gồm :
• Chất béo: 0,353g
• Carbohydrate: 53,4g (tinh bột đường)
• Chất xơ: 0,6g
• Chất đạm: 4,39g
• Mangan: 0,664mg
• Sắt: 2,72mg
• Thiamin: 0,305mg
• Lượng calo: 242
Theo bảng so sánh calo đổi ra đường huyết, thì 1mg/dl đườnghuyết tương đương 3,096 calo, thì 242 calo của 2 bát cơm làm đường huyết tăng thêm 78mg/dl.
Dựa theo những phân tích trên có thể thấy, gạo trắng là một thực phẩm giàu calo và đường.
Như vậy trước khi ăn, bụng rỗng đo đường huyết được 100mg/dl, sau khi ăn 2 bát cơm gạo trắng, đo đường huyết sẽ là 100+78=178mg/dl là đường tốt, bền vững, chuyển hóa chậm giúp ổn định đường huyết, nhưng trên thực tế nếu ăn thêm thức ăn có chất béo, canh rau củ quả cũng có đường đơn tan nhanh có ít calo hay không có calo, khoảng 10%, vì vậy theo Y Tế Thế Giới năm 1979 đường huyết sau khi ăn dưới 200mg/dl thì không ai bị bệnh tiểu đường và cũng không ai cần ăn thêm đường cát làm gì. Trừ khi ăn ít lượng tinh bột làm cơ thể thiếu đường thì phải bổ sung bằng đường cát vàng cũng cho đủ 200mg/dl. Đối với sự né tránh cơm, phải ăn ít và ăn nhiều rau củ quả để tránh bị bệnh tiểu đường thì tránh vỏ dưa lại đụng phải vỏ dừa tai hại hơn, vì ăn rau củ quả dù có ăn bao nhiêu cũng không có calo làm người mất sức sụt cân, và đường này gây ra bệnh ung thư.
Như vậy, tại sao chúng ta lại nói đến lượng đường trong cơm trắng?
Bởi lẽ, hiểu rõ về lượng đường trong thực phẩm giúp chúng ta kiểm soát lượng calo nạp vào cơ thể, từ đó điều chỉnh chế độ ăn uống hợp lý, đặc biệt là đối với những người cần kiểm soát lượng đường huyết.
Tuy nhiên, đừng vì lo lắng về lượng đường trong cơm trắng mà bỏ qua món ăn này. Cơm trắng là nguồn cung cấp năng lượng chính cho cơ thể, giàu vitamin và khoáng chất cần thiết cho sức khỏe. Thay vào đó, hãy lựa chọn loại gạo phù hợp, kết hợp ăn cơm với nhiều rau xanh dầu thực vật thay cho chất béo lipid, trái cây và hạn chế thức ăn ngọt để đảm bảo một chế độ ăn uống khoa học và lành mạnh.
Hãy nhớ rằng, mỗi thực phẩm đều có vai trò riêng trong việc cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể. Quan trọng là chúng ta biết cách sử dụng chúng một cách hợp lý và khoa học.

2. Vì sao gạo trắng không được khuyến cáo sử dụng nếu muốn giảm cân?
Không phải đơn thuần do lượng calo cao mà chính lượng đường trong 1 bát cơm khá nhiều và hàm lượng chất xơ tương đối thấp là những lý do khiến gạo trắng thường không được khuyến khích làm thực phẩm chính để giảm cân. Chỉ số đường huyết là thước đo mức độ nhanh chóng của một loại thực phẩm chứa carbohydrate làm tăng lượng đường trong máu. Thực phẩm có chỉ số đường huyết cao như gạo trắng, có thể khiến lượng đường trong máu tăng đột biến, dẫn đến tăng tiết insulin sau đó. Insulin thúc đẩy việc lưu trữ chất béo và góp phần tăng cân nếu tiêu thụ quá mức. Vì thế nếu muốn giảm cân, giảm béo tây y khuyên không nên ăn quá nhiều cơm trắng cho đến một thời gian sau 10 năm, 20 năm thống kê có nhiều người bị chết vì ung thư, chết vì gầy còm mất sức…lúc đó tây y mới biết sai lại thay đổi lý thuyết quay ngược 180 độ thì cũng đã nhiều người bị chết oan.
.
3. Lưu ý khi ăn cơm để không tăng cân chỉ dành cho người béo phì
Các chuyên gia dinh dưỡng và sức khỏe thường đề xuất một chế độ ăn ít calo, ít chất béo để giảm cân và gạo trắng có thể là một lựa chọn phù hợp. Dưới đây là một số cách bạn cần ghi nhớ để nấu cơm trắng tốt cho sức khỏe.
• Theo dõi khẩu phần ăn của bạn: Hãy chú ý đến khẩu phần ăn khi tiêu thụ gạo trắng. Tốt nhất nên sử dụng cốc đong hoặc cân thực phẩm để đo chính xác lượng thức ăn bạn ăn. Khẩu phần thông thường là khoảng 1/2 đến 1 chén cơm đã nấu chín.
• Kết hợp với protein: Kết hợp gạo trắng với nguồn protein nạc, chẳng hạn như gà nướng, cá, đậu phụ hoặc các loại đậu là cách để bạn có thể ăn cơm mà không tăng cân. Protein giúp tăng cảm giác no và có thể giúp cân bằng bữa ăn bằng cách làm chậm quá trình tiêu hóa carbohydrate.
• Thêm rau: Khi chuẩn bị các bữa ăn hàng ngày, hãy nhớ thêm một lượng lớn rau không chứa tinh bột với cơm trắng. Rau có ít calo và nhiều chất xơ giúp tăng khối lượng bữa ăn của bạn mà không làm tăng thêm lượng calo trong 1 bát cơm. Chúng cũng cung cấp các chất dinh dưỡng thiết yếu và góp phần vào một chế độ ăn uống cân bằng
• Cân bằng chế độ ăn uống: Hãy nhớ rằng giảm cân là sự cân bằng chế độ ăn uống tổng thể. Kết hợp nhiều loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, bao gồm protein nạc, chất béo lành mạnh, trái cây và rau quả, đồng thời kiểm soát lượng calo của bạn. Tập trung vào việc tạo ra mức thâm hụt calo thông qua việc kiểm soát khẩu phần ăn và tăng cường hoạt động thể chất.
• Hoạt động thể chất thường xuyên: Bạn cần nhớ rằng muốn giảm cân hiệu quả và bền vững thì hoạt động thể chất thường xuyên là điều không nên bỏ qua. Kết hợp các bài tập tim mạch, chẳng hạn như đi bộ nhanh, chạy bộ hoặc đạp xe, với rèn luyện sức mạnh sẽ giúp tăng cường trao đổi chất và đốt cháy calo.
Tóm lại, lượng đường và lượng calo trong 1 bát cơm là nhất định, và việc ăn cơm có làm bạn tăng cân hay không phụ thuộc vào tổng lượng calo bạn tiêu thụ và đốt cháy trong ngày. Cơm có thể là một phần của chế độ ăn uống cân bằng nếu được tiêu thụ một cách hợp lý và kết hợp với các loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng khác.
Nguồn: timesofindia.indiatimes.com
II-Cách giảm cân, giảm calo, làm cơ thể mất đường.
1-Giảm cân bằng thể dục :
Nhiều người ham tập thể dục thể thao, hay tập thể dục dụng cụ bằng các máy móc có bảng số đo thời gain tập, số lượng calo bị tiêu hao, và lượng đường mà cơ thể bị mất đi .
Chúng ta không có máy đo calo sau khi ăn, nhưng dựa theo số đo đường huyết chuyển đổi ra calo, thí dụ trước khi ăn là 144mg/dl =445,82 calo, sau khi ăn là 210mg/dl=668,74 calo, như vậy số calo tăng do lượng thức ăn.
Nhưng khi chúng ta tập đạp xe trên máy tập, thời gian càng lâu số vòng đạp càng nhiều, càng mệt, máy chỉ số calo tăng dần thí dụ tăng 700 calo, không có nghĩa là chúng ta tập được tăng lên 700 calo nữa, trái lại chúng ta làm mất 668,74 calo là đã làm mất 144mg/dl đường huyết, kết quả nhịp tim tăng, mệt mà đo đường huyết lại tăng, do thiếu mất đường cho tim phổi hoạt động, thiếu đường trong máu, càng tập càng tăng insulin bắt gan phải cung cấp đường dự trữ trong gan trong cơ bắp ra để bù vào sốt đường và calo sau khi tập bị mất là cơ thể đã giảm cân do đường huyết từ gan và trong cơ mất đi.
2-Phân tích bài nhịn ăn đường của Aquillas Modiba trong 30 ngày
a. Giảm cân: Giảm lượng đường ăn vào có thể giúp giảm cân vì đường bổ sung là nguồn cung cấp calo rỗng đáng kể.
b- Ổn định lượng đường trong máu: Tránh đường có thể giúp duy trì lượng đường trong máu ổn định hơn, có lợi cho sức khỏe lâu dài.
c. Năng lượng được cải thiện: Bạn có thể thấy năng lượng tăng lên vì bạn sẽ không gặp phải tình trạng lượng đường trong máu lên xuống thấp như hiện tượng xảy ra sau khi tiêu thụ đường.
d. Giảm cảm giác thèm đường: Bằng cách loại bỏ đường khỏi chế độ ăn uống, cảm giác thèm đường của bạn có thể giảm theo thời gian.
e. Cải thiện sức khỏe răng miệng: Giảm lượng đường có thể làm giảm nguy cơ sâu răng và các vấn đề răng miệng khác
g. Độ nhạy insulin tốt hơn: Giảm lượng đường ăn vào có thể cải thiện độ nhạy insulin, điều này rất quan trọng để ngăn ngừa bệnh tiểu đường loại 2.
h. Thay đổi vị giác: Sau 30 ngày không sử dụng đường, vị giác của bạn có thể thích nghi, cho phép bạn thưởng thức nhiều hơn hương vị tự nhiên của thực phẩm.
Giải thích :
a-Giảm không ăn đường phức hợp tinh bột đường, mà bổ sung đường từ rau củ quả là calo rỗng, trong khi tim phổi vẫn cần đường glucogen lấy từ gan và bắp thịt nên cơ thể bị sụt cân
b-Trong máu không có đường phức hợp, nhưng vẫn có đường bổ sung không có calo nhưng vẫn có đường được chuyển hóa glycogen
c-Năng lượng cải thiện thì cần phải kiểm chứng bằng máy đo áp huyết máy đo đường, nhiệt độ và pH chứ không cảm nhận bằng cảm tính, vì những người béo phì gỉảm cân mà áp huyết cao, nhịp tim cao, đường huyết cao được giảm xuống thì sức khỏe cải thiện tích cực. Ngược lại người có đường huyết cao do tiêm insulin, áp huyết cao. người gầy, sau khi không ăn đường phức hợp mà bổ sung đường rau củ quả, thì càng giảm cân và giảm áp huyết xuống thấp, chân tay lạnh, người lạnh sức khỏe cải thiện kiểu tiêu cực còn da bọc xương thì chết.
d-Giảm cảm giác thèm đường thì đúng là tin mừng là tin rằng mình không ăn đường sẽ thoát khỏi bệnh tiểu đường, nhưng thực tế cơ thể vẫn một ngày một sụt cân bị tim phổi lấy đường ra cho cơ thể hoạt động.
e-Cải thiện sức khỏe răng miệng không bị sâu rang thì đúng nhưng không có đường nuôi xương răng.
g-Vì cơ thể thiếu đường, insulin điều tiết gan chuyển glycogen cân bằng insulin để đưa đường vào máu, có nghĩa insulin rút mất đường trong cơ thể thì cơ thể mất đường sụt cân, không tốt cho người gầy.
h-Thay đổi vị giác quen với không dường sẽ yên tâm không bị bệnh tiểu đường, không phải tiêm insulin chữa tiểu đường, nhưng sức khỏe càng mất sức chán ăn và thử pH nước bọt tăng acid dẫn đến môi trường máu acid dẫn đến tế bào ung thư.
Vì thật ra cơ thể vẫn cần 3 phần đường tư đường phúc hợp, một phần cho tim phổi hoạt động duy trì hô hấp và tuần hoàn 24/24, một phần đường glucose để tiêu hóa hết thức ăn bằng cách phối hợp với protein trong thức ăn biến thành máu, phần đường thứ ba dùng cho năng lượng vận động làm việc chân tay hay trí óc, trong sinh hoạt hang ngày.

3-Phân tích bài đi tiểu đêm của bác sĩ Bansal đúng hay sai.
Tiến sĩ Bansal, bác sĩ nổi tiếng của Shivpuri, giải thích rằng tiểu đêm thực chất là một triệu chứng của sự tắc nghẽn lưu lượng máu đến tim và não.

Người lớn và người cao tuổi bị nặng nhất vì họ thường xuyên phải dậy vào ban đêm để đi tiểu. Người cao tuổi không uống nước trước khi đi ngủ vào buổi tối vì sợ làm phiền giấc ngủ. Họ cho rằng nếu uống nước sẽ phải dậy đi tiểu lại.

Những gì họ không biết là không uống nước trước khi ngủ hoặc sau khi đi tiểu đêm là nguyên nhân quan trọng gây ra các cơn đau tim hoặc đột quỵ vào sáng sớm thường xuyên ở người lớn và người cao tuổi.
Thực tế, tiểu đêm có nghĩa là đi tiểu nhiều lần chứ không phải do rối loạn chức năng bàng quang. Điều này là do chức năng tim ở người già giảm dần theo tuổi tác, vì tim không còn khả năng hút máu từ phần dưới của cơ thể.
Trong trường hợp như vậy, ban ngày khi chúng ta ở tư thế đứng, lượng máu chảy xuống nhiều hơn. Nếu tim yếu, lượng máu về tim không đủ và tăng áp lực lên phần dưới của cơ thể.
Đó là lý do tại sao người lớn và người cao tuổi bị sưng phù ở phần dưới của cơ thể trong ngày.

Khi họ nằm xuống vào ban đêm, phần dưới của cơ thể được giảm bớt áp lực và do đó rất nhiều nước sẽ được lưu trữ trong các mô. Nước này trở lại vào máu. Nếu có quá nhiều nước, thận sẽ phải làm việc nhiều hơn để tách nước và đẩy nó ra khỏi bàng quang.

Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến chứng tiểu đêm.
Vì vậy, thường mất khoảng ba hoặc bốn giờ từ khi bạn nằm xuống để ngủ và lần đầu tiên bạn đi vệ sinh. Sau đó, khi lượng nước trong máu bắt đầu tăng trở lại, sau ba giờ người ta phải đi vệ sinh lại.

Bây giờ câu hỏi được đặt ra là tại sao nó lại là nguyên nhân quan trọng gây ra đột quỵ não hoặc nhồi máu cơ tim?

Câu trả lời là sau khi đi tiểu 2 hoặc 3 lần, có rất ít nước trong máu. Lượng nước trong cơ thể cũng bị giảm đi do hô hấp. Điều này làm cho máu trở nên đặc và dính và nhịp tim chậm lại trong khi ngủ. Do máu đặc và máu chảy chậm nên mạch máu bị hẹp dễ bị tắc ...

Đây là lý do tại sao người lớn và người cao tuổi luôn bị phát hiện đau tim hoặc tê liệt vào khoảng 5-6 giờ sáng Trong tình trạng này, họ chết trong giấc ngủ.

1/ Điều đầu tiên cần nói với mọi người rằng, tiểu đêm không phải là sự cố của bàng quang mà là vấn đề của quá trình lão hóa.

2/ Một điều nữa cần nói với mọi người là bạn nên uống nước ấm trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy để đi tiểu đêm. Không sợ tiểu đêm. Uống nhiều nước, vì không uống nước có thể giết chết bạn.

3/ Điều thứ ba là để tăng hiệu quả hoạt động của tim, bạn nên tập thể dục nhiều hơn trong thời gian bình thường.
Cơ thể con người không phải là một cỗ máy sẽ xấu đi nếu lạm dụng nó, ngược lại, càng sử dụng nhiều, nó sẽ càng trở nên mạnh mẽ hơn.

Không ăn thức ăn không tốt cho sức khỏe, đặc biệt là đồ ăn nhiều tinh bột và đồ chiên.
Giải thích những điểm đúng và sai :
70% trọng lượng cơ thể là nước, trừ nhũng người gầy ốm mới không đủ nước. Chức năng lọc của thận mỗi giờ máu và nước vận chuyển 6 lít qua thận rồi chuyển máu về tim, nhưng khi đứng ngồi lâu sưng chân là nước bị giữ đưới chân không về tim làm suy tim, khi nằm gác chân lên cao nước dưới chân lại theo máu về tim, như vậy lúc nào cơ thể cũng có nước
Đi tiểu đêm nhiều lần làm mất nước, và mất giấc ngủ, nên cần phải giữ nước không cho đi tiểu đêm và không làm mất giấc ngủ, theo đông y là bàng quang hàn lạnh, van tiểu mở do thiếu đường, tối đi ngủ uống thêm đường làm tăng đường huyết lên 200mg/dl làm tăng thân nhiệt, tăng dương đóng van tiểu thì cơ thể không mất nước, vẫn được ngủ thẳng giấc, và đủ đường cho tim phổi hoạt động trong 6-7 giờ ngủ đường huyết sẽ tiêu hao 60-70mg/dl đường huyết, nên sáng ngủ dậy đo đường huyết tụt thấp còn 130-140mg/dl thì cơ thể khỏe mạnh và không bị chết trong đêm.
Ngược lại trước khi đi ngủ đường huyết thấp có 140mg/dl, lại uống thêm nước làm loãng đường trong máu xuống còn 120mg/dl, đêm lại bị đi tiểu 2-3 lần làm đường huyết tụt thấp, bệnh nhân thường bị chết lúc 4-5 giờ sáng vì đường huyết theo nước tiểu ra ngoài, lúc bị chết đo đường huyết thường chỉ còn 50mg/dl, thì bệnh nhân chết vì thiếu đường cho tim phổi hoạt động nên tim ngừng đập.

III-Cách kiểm chứng thực phẩm đối với sức khỏe trước khi ăn và sau khi ăn.
Phần này rất quan trọng khác với tây y mà mọi người thường nói đông y chữa gốc, tây y chữa ngọn nhưng không hiểu nguyên nhân tại sao, vì hai lối học y khác nhau :
Tây y đào tạo ra bác sĩ căn bản tổng quát, học cao hơn nữa là phải học chuyên sâu về một môn gọi là bác sĩ chuyên khoa về môn của mình thì không biết chữa được các chuyên môn của khoa khác, cho nên khi bệnh nhân bị bệnh thông thường thì chỉ cần bác sĩ gia đình, còn vượt khỏi khả năng của mình thì bác sĩ gia đình sẽ giới thiệu đến bệnh viện đa khoa xét nghiệm máu tìm nguyên nhân bệnh là nơi tập trung nhiều bác sĩ chuyên khoa. Cho nên 1 bệnh nhân có nhiều bác sĩ chuyên môn điều trị.
Khác với đông y, là học chuyên môn trước, như chuyên khoa day bấm huyệt, chuyên khoa châm cứu, học từng phần chuyên khoa như học lấy từng tín chỉ, học về triệu chứng của các bệnh chuyên khoa tim mạch, bao tử, phổi, thận gan tim…sau cùng rút tỉa kinh nghiệm chữa từng khoa mới thấy chữa chuyên khoa là chữa ngọn, thật ra do nhiều nguyên nhân khác nhau thì cần phải học cao hơn sự liên kết ngũ hành tạng phủ, cái nào hư , cái nào thực, cái nào cần chữa trước cái nào cần chữa sau, và bệnh nào cũng biết được nguyên nhân và cách chữa đúng vào nguyên nhân gây bệnh cho bệnh nhân khỏi bệnh thì bác sĩ đông y không gọi là bác sĩ chuyên khoa chỉ biết một môn, mà gọi là bác sĩ toàn khoa, môn nào cũng biết chữa, biết được nguyên nhân thì dù có nhiều tạng phủ bệnh không cần cho nhiều thuốc chữa nhiều tạng phủ như tây y. mà chỉ cần ít thuốc mà chữa khỏi được các loại bệnh, vì tất cả các bệnh đều do tinh-khí-thần thay đổi, nh thay đổi khi là số đo áp huyết tâm thu, thay đổi thức ăn đúng sai do số tâm trương bên tay trái, thay đổi tăng giảm lượng máu là do số tâm trương bên tay phải, thần do tinh là thức ăn làm tăng giảm máu hay mỡ, làm tăng giảm khi cân bằng thân nhiệt cho cơ thể khỏe mạnh hồng hào thì tạo ra thần tốt hiển thị bằng nhịp tim trong tiêu chuẩn 70-80 là nhiệt trong cơ thể và nhiệt độ ngoài da như trên trán, là nhiệt độ trong bao tử, nhiệt độ đo đầu ngón tay út trái là nhiệt độ của tim mạch, nhiệt độ đầu ngón chân út trái là nhiệt độ của thận và thần kinh chức năng não bộ nằm trong tiẽu chuẩn 36-36.5 độ C.
Lý thuyết tìm nguyên nhân gốc bệnh của đông y, giống như câu ca dao : Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà, có nghĩa khi cơ thể bị bệnh là 3 hành đều bệnh.
Đông y trừu tượng hóa các tạng phủ bằng ngũ hành như hỏa, thổ, kim, thủy, mộc.
Hỏa hiển thị cho tim và ruột non, mục đích tuần hoàn và tạo máu .
Thổ hiển thị là lá mía và bao tử, mục đích thu nạp và chuyển hóa thức ăn .
Kim hiển thị là phổi và ruột già, mục đích hô hấp thu nhận oxy tăng lực co bóp của các tạng phủ duy trì hồng cầu, loại bỏ khí độc CO2 và loại bỏ cặn bã thức ăn thành phân
Thủy hiện thị thận và bàng quang, cân bằng nước điện giải, thân nhiệt
lọc máu và thải nước tiểu
Mộc hiển thị gan và mật điều tiết dịch tiêu hóa, lọc độc máu, chứa máu, mỡ, đường dự trữ glycogen để điều chỉnh đường huyết trong máu, cung cấp máu cho tim tuần hoàn.
Cơ thể khi có bất cứ một bệnh gì đều sẽ liên quan đến 3 hành liền nhau, như mộc-hỏa-thổ là gan-tim-bao tử, hay hỏa-thổ-kim là tim-bao tử-phổi, hay kim-thủy-mộc là phổi-thân-gan …
Đo áp huyết 2 tay, đo đường huyết, nhiệt độ 3 nơi, trước khi ăn và sau khi ăn 30 phút, chúng ta hãy để ý đến nhịp tim, đường huyết và nhiệt độ 3 nơi, so với tiêu chuẩn tuổi. Những điểm đáng chú ý là :
1-Có loại thức ăn làm tăng tâm thu tay trái bên bao tử và bên tay phải bên gan hạ thấp, làm tăng nhịp tim, làm tăng nhiệt độ 36 độ C, mà đường huyết không tăng thì thức ăn này tốt cho người có 3 số đo áp huyết thấp, không tốt cho người có áp huyết cao.
Thí dụ trước khi ăn có số đo áp huyết tay trái 125/60mmHg 60, tay phải 130/65mmHg 62 đường huyết thấp150mg/dl. nhiệt độ 35 độ C
Sau khi ăn tăng tâm thu tay trái 130/80mmHg 75, tay phải thấp xuống còn 36,6 120/75mmHg 72, đường huyết 150mg/dl nhiệt độ 36,5 độ C

2-Có loại thức ăn sau khi ăn làm hạ cả 3 số đo áp huyết, làm hạ nhiệt độ đang cao 37 độ C, xuống còn 36.5 độ C , làm hạ đường huyết cao trên 300mg/dl xuống thấp 200mg/dl, thì thức ăn này tốt cho người cao áp huyết, mà không tốt cho người áp huyết thấp, đường huyết thấp.

3-Có loại thức ăn làm tăng tâm trương cao hơn tiêu chuẩn, mà nhịp tim thấp dưới tiêu chuẩn, đường huyết thấp, nhiệt độ thấp, thí dụ như áp huyết sau khi ăn tay trái 120/90mmHg 60 , nhiệt độ 34 độ C, đường huyết 100mg/dl, loại thức ăn này sẽ làm cho bệnh nhân chóng mặt đột quỵ, vì nhiệt độ thấp là người lạnh, nhịp tim thấp là tốc độ bơm máu chậm do máu đông đặc không vào tim, tâm trương cao là mỡ và máu đặc làm nghẹt tim khó thở, phải cấp cứu ngay bằng uống thêm đường cát vàng cho tăng nhiệt độ ngón tay út, cho tăng nhịp tim, rồi ho mạnh 5 tiếng vừa vỗ vào tim ngực cho máu loãng thông máu vào tim thì số tâm trương tụt thấp, thoát chết. Nhưng nếu với áp huyết này mà đường huyết 140mg/dl đối với tiêu chuẩn đường huyết của Y Tế Thế Giới năm 1979 thì vẫn thiếu đường huyết tiêu chuẩn no, áp huyết tâm trương cao, nhịp tim thấp là máu đông, khó thở vẫn phải vào bệnh viện cấp cứu thì bệnh nhân sẽ chết, vì bác sĩ không đo áp huyết để biết nguyên nhân tâm trương cao 90, mà chỉ thấy đường huyết cao 140mg/dl so với tiêu chuẩn mới từ 70-99mg/dl thì tiêm ngay insulin để hạ đường huyết làm nhịp tim thấp hơn, nhiệt độ thấp hơn, máu đông đạc không vào tim, thì bệnh nhân hôn mê chính là lúc tim ngưng đập.

4-Loại thức ăn theo ăn kiêng đường, giảm mập, nhưng không hiểu lý thuyết về đường huyết.
Tây y đã giải thích, trong bất cứ loại thức ăn nào vào cơ thể cũng được biến đổi thành đường là năng lượng tạo máu, tạo mỡ tạo oxy, nên lý thuyết của tây là tế bào cần 4 chất glucose, protein, lipid, oxy.
Khi chúng ta ăn nhiều bị thừa đường, thì một phần đường biến thành năng lượng duy trì tim phổi hoạt động 24/24 không thể thiếu, 2 cơ quan này cứ mỗi giờ tiêu thụ 10mg/dl đường huyết tương đương với 1 thìa cà phê đường cát vàng, rinng hai cơ quan này 1 ngày tiêu thụ 24 thìa cà phê đường cát vàng hay 240mg/dl đường huyết từ thức ăn mỗi ngày, một phần đường được insulin dẫn theo máu đi nuôi các tế bào khắp cơ thể cho đủ đường huyết 140mg/dl trong máu, còn lại đường thừa lựu trữ trong gan thành đường dự trữ glycogen, thành mỡ, nên ăn nhiều đường thì béo phì do gan chứa nhiều đường, nhiều mỡ.
Tuy nhiên khi bắt đầu ăn kiêng, giảm đường giảm mỡ, mà tim phổi vẫn cần năng lượng đường cho đủ 240mg/dl/1 ngày thì gan phải rút đường dự trữ glycogen thành glucose cho tim phổi hoạt động, thì mỡ trong người giảm thì người ăn kiêng bị giảm cân là lẽ đương nhiên.
Khi chiều cao của một người như 1,6m, sức nặng hơn 60kg mới cần giảm cân xuống còn 55kg thì phải ngưng, không ăn kiêng nữa thì tốt. nhưng tiếp tục ăn kiêng cho đến khi sụt cân còn 40kg thì các tế bào sẽ trở thành ung thư hoạc cơ thể có nhiều bệnh nan y.
Chúng ta phải nghĩ xem khi cơ thể còn cân nặng 40kg thì cơ thể có còn mỡ không, có còn bắp thịt không, có còn đường dư thừa không, chắc chắn là không, Tim phổi sẽ bị suy yếu, tim sẽ kêu lên : Mẹ cứu con, mẹ là gan đâu còn gì để cứu, bắt buộc rút đường trong xương, não, tủy, lúc đó không ăn đường mà đo đường tự nhiên cao vọt lên 300mg/dl trở lên, người gầy dần, chân tay lạnh dần, khó thở, suy tim, suy hô hấp, bắt buộc phải vào bệnh viện cấp cứu, bác sĩ không hiểu đường này không phải thừa đường béo phì mà đường cao do mất thịt mất xương, lại tiêm insulin hạ đường huyết thì gan lại phải rút đường trong các tế bào tạng phủ để chống lại insulin, gọi là kháng insulin, là cách tây y gọi, nhưng thiệt hại cuối cùng là bệnh nhân chết do timngưng đập vì cơ thể không còn năng lượng cho tim phổi hoạt động.
Có bao giờ các bác sĩ ngồi lại, suy nghĩ xem mình đã vô tình giết chết bao nhiêu người trong trường hợp này, mà vẫn cứ đổ thừa trách nhiệm để hù dọa người khác là bệnh nhân chết vì đường huyết cao, cũng vô tình làm mọi người kiêng sợ đường cũng gặp hoàn cảnh này chết âm thầm trong đêm do đường huyết tụt thấp trong đêm dưới 70mg/dl.
Để tránh làm chết người oan uổng phải phân biệt đường huyết cao, người gầy xanh xao khó thở không phải thừa đường mà đang thiếu đường trầm trọng cần phải tiên glucoza, chứ không phải tiêm insulin
Còn người béo phì đường huyết cao cũng không phải tiêm insulin, mà chỉ hướng dẫn bệnh nhân bớt ăn, tập nhiều, không bị béo phì thì làm gì có bệnh thừa đường hay có bệnh tiểu đường.

(còn tiếp PHẦN 8)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 2 Tháng 4 14, 2025 2:20 pm

PHẦN 8.
MÁY ĐO ĐƯỜNG HUYẾT CHỈ HI (HIGH)
NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
https://youtu.be/vj1fJoaDTLA

I.PHÂN BIỆT ĐƯỜNG ÂM-ĐƯỜNG DƯƠNG.
Mọi người đều biết đường là chất ngọt làm gì có đường dương đường âm. Nhưng chính máy đo áp huyết đã chỉ cho chúng ta biêt phân biệt đựợc thế nào là đường âm đường dương.
Theo số đo áp huyết có 3 con số là tâm thu chỉ tổng số khí lực oxy của tạng phủ khác nhau trong cơ thể. Thí dụ khi bao tử đói trống rỗng thì thể tích khí trong bao tử là 120mmHg, sau khi ăn no, thể tích khí trong bao tử là 130mHg, như vây đông y gọi là tăng dương, ngược lại, tâm thu càng tụt xuống thấp gọi là mất dương hay tăng âm dưới 100mmHg
Số thứ hai tâm trương bên bao tử chỉ lượng thức ăn cao trong tiêu chuẩn là tăng đương, thấp hơn tiêu chuẩn lả giảm dương tăng âm.
Số thứ ba là nhịp tim quan trọng nhất, cao 80 là đủ dương, cao hơn là thừa dương thì trong cơ thể nóng nhiệt, tây y chưa biết điều này, nhưng nếu nhịp tim cao 120 thì tây y gọi là bệnh sốt nhiệt nhiễm trùng, như vậy có nghĩa nhịp tim từ 80 đến 120 là độ nóng trong người càng ngày càng tăng. Ngược lại nhịp tim xuống giới hạn 70 là giao điểm giữa nóng ấm và lạnh, có nghĩa từ 69 trở xuống thì cơ thể bị hàn lạnh, càng thấp thì tốc độ bơm máu càng chậm do máu đông đặc lại, nếu ai bị bệnh áp huyết cao thì tây y cho dùng thuốc hạ áp huyết là làm hạ đương khi tâm thu làm mất dương từ từ xuống tăng âm dưới 100mmHg, thuốc áp huyết làm hạ nhịp tim từ dương xuống dưới 70 là tăng âm xuống 60-65, làm máu đặc gây ra cục máu đông, xơ vữa động mạch vành phải đặt stent, và phải kèm theo thuốc loãng máu, nhưng thuốc loãng máu của tây y không có giá trị gì nếu thuốc không làm tốc độ bơm máu tăng trong tiêu chuẩn 70-80 thì thuốc loãng máu không làm loãng máu thật
Như vậy nhịp tim trong tiêu chuẩn 70-80 là nhiệt độ ấm của cơ thể, không nóng quá nghĩa là không vượt hơn 80, không lạnh quá nghĩa là không dưới 70.
Như vậy Khí Công Y Đạo căn cứ vào nhịp tim để xác định âm dương dùng để thử các loại đường.
1-Nếu chúng ta dùng loại đường nào, so sánh nhịp tim trước khi uống và sau khi uống làm nhịp tim tăng thì gọi là đường dương. Làm nhịp tim giảm thì gọi là đường âm.
Kinh nghiệm thực tế khi chúng ta bị sốt nhiệt có nhịp tim cao 100, chúng ta uống nhiều nước mía làm nhịp tim hạ xuống 70-80 thì hết sốt, thì nước mía là đường âm, dùng để hạ nhịp tim, hạ sốt xuất huyết trong 5 ngày tự nhiên khỏi bệnh mà không cần dùng thuốc tây
2-Ai có nhịp tim thấp như 60, máu đặc, trong người lạnh, khó thở, dùng thuốc loãng máu aspirin 80mg không thấy nhịp tim tăng, thì vẫn bị xơ vữa động mạch vành phải nong mạch làm stent để mở rộng ống mạch cho máu vào tim chỉ là chữa ngọn, vì nhịp tim vẫn thấp, máu vẫn đặc, nó sẽ làm ống mạch khác dẫn máu vào tim vẫn bị đặc nghẹt lại phải đặt stent thứ hai, rồi thứ ba, rồi thứ tư.
3-Nếu như chúng ta dùng thuốc áp huyết mà có nhịp tim 60 tây gọi là tốt, cho đến khi tức ngực nghẹt thở do tắc mạch, xơ vữa động mạch vành, chúng ta dùng thử uống nước nóng pha 10 thìa cà phê đường cát vàng, sau 30 phút đo lại áp huyết và nhịp tim để so sánh, thì thấy số tâm thu đang âm dưới 100 tăng lên 110, nhịp tim 60 tăng lên 65, thì chúng ta gọi đường cát vàng là đường dương.
4-Nếu chúng ta uống đường cát trắng thấy áp huyết tâm thu không tăng, nhịp tim không tăng, thì đường cát trắng không phải là đường dương.
Chúng ta không cần thắc mắc tại sao trong đường âm đường dương có gì khác biệt, giống như Trung Quốc nói không cần biết mèo trắng mèo đen có gì khác biệt, miễn là có thể bắt được chuột là được. cũng như muốn làm tăng áp huyết thành cao và tiêu hóa thức ăn nhanh thì uống coca, còn làm giảm áp huyết cao thành thấp và tiêu hóa thức ăn nhnh thì uống Pepsi, không cần biết thành phần của chúng khác nhau điểm nào, mà chỉ cần ứng dụng có kết quả.

II-Phân biệt tại sao có người nhịp tim cao trong người nóng mà thiếu đường
1-Kiểm chứng thực tế trên lâm sàng.uống đường nhiều mà đường mất đi đâu ?
Bệnh nhân có số đo áp huyết
Trước ăn : Tay trái 125/75mmHg 95, tay phải 130/82mmHg 94
Đường huyết 120mg/dl, nhiệt độ trán 36.3 độ C, nhiệt độ đầu ngón tay út trái 35.2 độ C, đầu ngón chân út trái 32,5 độ C.
Theo đông y Khí Công Y Đạo nhịp tim 95, 94 trong người nóng, nhiệt độ ngoài da chỉ tim và thận hàn, thì đường 120mg/dl vẫn làm chân tay lạnh là chưa đủ đường dương để chuyển hóa thức ăn thành máu nên thiếu máu, mà thức ăn biến thành mỡ, thì nhịp tim 94,95 theo đông y âm hư nội nhiệt, âm là máu, hư là thiếu, có nghĩa cơ thể thiếu máu trong người nóng thì nhịp tim tăng, thì không phải là sốt, vì nhiệt độ tay chân thấp
Sau khi uống thêm 10 thìa cà phê đường cát vàng. Đo lại kết quả để so sánh :
Áp huyết tay trái 127/72mmHg 85, tay phải 132/78mmHg 82, đường huyết 140mg/dl, nhiệt độ trán 36.5 độ C, đầu ngón tay út trái 35.8 độ C, đầu ngón chân út trái 34.5 độ C
So sánh kết quả :
Uống 10 thia cà phê đường huyết thay vì phải tăng lên thêm 100mg/dl cộng với đường cũ 120mg/dl thì theo lý thuyết phải đo được 220mg/dl, nhưng hiện tại chỉ có 140mg/dl thì 80mg/dl đường huyết đi đâu, làm gì ?
Đường này mất đi để làm tăng dương số tâm thu tay trái tứ 125 lên 127, làm tiêu thêm thức ăn tâm trương tay trái từ 75 xuống 72 để chuyển thành máu bên tâm trương tay phải biến mỡ thành máu từ 82 xuống còn 72, là tăng tâm thu tay phải từ 130 lên 132, và làm hạ nhịp tim cao 94,95 xuống còn 82,85 là lượng máu tăng thì nhịp tim giảm bớt nội nhiệt

2-Tại sao uống thật nhiều đường dương, không bao giờ máy chỉ HI.
Có ba trường hợp :
Trường hợp 1. Nhịp tim quá thấp 55
Khi nhịp tim quá thấp, theo đông y là trong cơ thể cực hàn do dùng thuốc hạ đường và hạ áp huyết. và nhiệt độ chân tay súng bắn nhiệt kế chỉ low, là không bắt được độ .
Uống 10 thìa đường cát vàng, làm nhịp tim tăng từ 55 lên 58, uống thêm 10 thìa đường nữa nhịp tim tăng 62, uống 10 thìa đường nữa nhịp tim tăng 65.
Công dụng của đường dương tăng nhịp tim làm máu loãng dễ thở, không bị máu động đóng cục nghẹt tim và làm tăng áp huyết tâm thu, và đường chuyển hóa tâm trương để làm nhiệm vụ tiêu hóa thức ăn.
Uống đến 30 thìa theo lý thuyết là đường huyết phải tăng thêm 300mg/dl, trên thực tế đường huyết đo vẫn thấp chỉ có 130mg/dl thì uồng đường nó đi đâu chúng ta đã biết, nó làm tăng nhịp tim, tăng thân nhiệt, chuyển hóa thức ăn thành máu, cuối cùng đường huyết còn 130mg/dl là cơ thể vẫn thiếu đường vì nhịp tim tăng chưa vào tiêu chuẩn người khỏe 70-80, nhiệt độ tay chân chưa lên 36-36,5 độ C, có nghĩa lượng máu cơ thể chưa đủ do ăn ít, ăn kiệng, người vẫn gầy.
Trường hợp 2.Nhịp tim cao 120, người lạnh, áp huyết tâm thu, tâm trương thấp là ung thư
Thực nghiệm lâm sàng.
Nử bệnh nhân đang bị ung thư giai đoạn cuối, áp huyết tay phải 100/60mmHg 120, đường huyết 80mg/dl, nhiệt độ 3 nơi chỉ low, chân tay lạnh., pH nước bọt 5 acid
Đây là áp huyết giả, đổi sang áp huyết thực phải có nhịp tim của người khỏe mạnh là 80, vì thiếu máu nhịp tim đã đập nhanh hơn 120 trừ 80 là đã đập nhanh hơn 40 nhịp, lấy số tâm thu tay phải 100 trừ 40, thì áp huyết thật 60 là giai đoạn chết bất cứ lúc nào
Uống 10 lần đường, mỗi lần 10 thìa cà phê đường cát vàng, tổng cộng là 100 thìa, không uống nước mà nhai nuốt đường,
Nuốt 10 thìa đường lần 1, đo đường lên 89mg/dl, nhai nuốt lần hai, đo đường lên 92mg/dl, lên dần 105mg/dl… lần thứ 10 lên 178mg/dl, như vậy uống thật nhiều đường mà máy đo đường không bao giờ lên được cao tối đa chỉ HI (high).
Số đường mất đi đã làm giảm nhịp tim, bệnh nhân cần ăn phở cho đường chuyển hóa thức ăn thành máu làm nhịp tim giảm, làm tăng lượng máu, và làm tăng áp huyết tâm thu như
Kết quả cuối cùng, áp huyết tay phải 110/70mmHg nhịp tim 80 là đã vượt qua cửa tử thoát khỏi ung thư ,
Trường hợp 3. Nhịp tim cao 90, áp huyết tay phải cao 150, đường huyết thấp 80mg/dl
Thực chứng lâm sàng, nam bệnh nhân nhai nuốt 9 bát đường, mỗi bát 200g đường cát vàng, nhai nuốt đường đến bát thứ 7 thí ói hết thức ăn trong bao tử ra cái thau, những bã thức ăn đóng cục mầu xanh, đen, vàng và chất nhầy, nhớt khoảng hơn 2 lít, sau đó bụng nhẹ dễ thở, áp huyết trở về tiêu chuẩn bình thường, và đường huyết đo được 220mg/dl.
Điều này chứng tỏ uống thật nhiều đường máy chỉ đường huyết không bao giờ chỉ HI được và uống nhiều đường không chết như mọi người lầm tưởng, vì cơ thể sẽ tự động đào thải đường dư thừa ra ngoài bằng nôn ói hay bằng đi bằng đường hậu môn.

III-Nguyên nhân máy đo đường huyết chỉ HI (high)
Máy đo đường huyêt không bao giờ chỉ HI với người thừa cân béo phì, chỉ có những người trước đã tiêm insulin để trị đường huyết cao, càng tiêm insulin hạ đường thì đường huyết .càng cao, tây y gọi là kháng insulin.
Có ba trường hợp xảy ra với những người đang tiêm insulin
Trường hợp 1. Đường huyết cao 400mg/dl
Bệnh nhân ngày nào cũng phải tiêm 3 lần trong ngày, vỉ sợ bỏ tiêm đường huyết tăng thêm, nhưng thực tế bỏ tiêm, đường huyết không tăng mà vẩn 400mg/dl, nhưng không tiêm thì cảm thấy sức khỏe tăng đỡ mệt hơn, như vậy họ tin rằng không tiêm thì đường huyết không còn tăng nên không sợ đường.
Trường hợp 2. Đường huyết cao 400mg/dl, bỏ tiêm mà uống thêm đường
Kh uống thêm đường thấy ngon lại khỏe người, thì đường huyết đi đâu trong cơ thể mà mình cảm thấy khỏe, chính là đường dương làm đường huyết giảm xuống còn 380mg/dl, như vậy đường huyết 400mg/dl là đường âm, đường cát uống vào là đường dương làm hạ đường âm.Tiếp tục uống đường dương để hạ đường âm là bù lại đường trả nợ da thịt cho cơ thể tăng cân trở lại như cũ.

Trường hợp 3.Giải thích tại sao khi những người bỏ tiêm, uống đường đương, máy vẫn chỉ HI mà không chết
Trường hợp náy chỉ cho những người bỏ tiêm, mà uống đường để phục hồi sức khỏe, mặc dù máy đo đường vẫn chỉ HI mà không chết.
Như giáo sư bác sĩ Phạm Hiếu Liêm vẫn nói đường cao không chết, không bị bệnh tiểu đường chỉ đường thấp mới chết.
Như vậy máy chỉ đường HI là thấp hay cao ?
Nhìn vào máy chỉ Hi là cao, nhưng thật ra cơ thể bị mất nhiều đường là cơ thể không có đường, thiếu đường mà tiêm insulin để nó rút hết đường trong cơ thể thì chết là lẽ đương nhiên.
Máy chỉ hiện ra con số tối đa là 500mg/dl, cao hơn 500mg/dl cho đến 1000mg/dl thì máy vẫn chỉ HI.
Khi bệnh nhân đo đường máy chỉ 500mg/dl, tiêm insulin tiếp thì máy chỉ HI, nhưng thật ra insulin nó đã rút đường trong cơ thể ra 600mg/dl, tiếp tục tiêm nó đã rút đường ra 700mg/dl máy vẫn chỉ Hi, tiếp tục tiêm, insulin đã rút đường ra 800mg/dl vài tháng sau người càng gầy, bắp thịt càng teo, bao tử càng nhỏ, càng bỏ ăn, da thịt chân tay càng lạnh cho đến khi hôn mê hồn lìa khỏi xác, Khi chết bác sĩ còn tuyên bố bệnh nhân chết vì bệnh tiểu đường cao, chúng ta nghĩ đúng hay sai.
May mắn những ai kịp thời bỏ tiêm sẽ thấy ngược lại uống đường để tự cứu sống mình khi uống đường nhiều cảm thấy khỏe ăn ngủ được, tuy máy đo đường vẫn chỉ cao nhưng nó giảm ngầm đường âm dần từ 900mg/dl xuồng 800mg/dl máy vẫn chỉ Hi, máy xuống 700mg/dl máy vẫn chỉ HI, khi uống đường dương tăng đủ thì máy hiện lại số 500mg/dl, mỗi ngày mỗi uống đường máy hiện 400mg/dl, nếu tính theo đơn vị mmol/l thì càng bổ sung đường cát vàng thì đường huyết giảm dần tư 25mmol/l, xuống còn 21mmol/l, xuống còn 19mmol/l, xuống 15mmol/l, tập thêm thể dục cho tiêu thụ đường dương nhiều hơn cho người xuất mồ hôi thì đường huyết xuống 8mmol/l thì ngưng, lúc đó áp huyết và nhịp tim tăng vào tiêu chuẩn tuổi và nhiệt độ 3 nơi đều 36-36,5 độ C thì người khỏe hết bệnh nan y,.thoát khỏi ung thư nếu đo pH nước bọt tứ acid pH 5 tăng dần pH nước bọt lên pH 6,5-7,0.
Ngược lại nếu ai có số xui vào bệnh viện bị tiêm insulin trong 1 tuần, insulin rút hết đường sẽ đi vào hôn mê tim ngừng đập lại bị bác sĩ ghi vào hồ sơ bản án chết vì bệnh đường huyết cao.
Có các bác sĩ nào cuối năm tính xem mình đã giết chết oan bao nhiêu người chưa.?

(còn tiếp PHẦN 9)
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7015
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Trang kế tiếp

Quay về Tài liệu Tự Học Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến5 khách