TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 3 Tháng 7 08, 2025 5:16 pm


PHẦN 19-LÀM SAO GIỮ ĐỦ ĐƯỜNG HUYẾT CHO CƠ THỂ KHỎE MẠNH


I-Theo lý thuyết năng lượng calo.
1-Năng lượng calo từ đâu đền.
Năng lượng calo đã được khoa học kiểm chứng từ lâu, trước khi có lý thuyết về đường huyết cũng đến từ thức ăn được nạp vào trong mỗi bữa ăn.
Tiêu chuẩn của người lớn cần 2000 calo/ngày, chia làm 2 bữa ăn chính, mỗi bữa cần nạp đủ thức ăn 1000 calo. Có 3 trường hợp xảy ra làm thay đổi tình trạng sức khỏe của mình .
a-Trường hợp khỏe mạnh không bệnh thì lượng calo nạp vào từ thức ăn của mỗi ngày bằng với năng lượng tiêu thụ calo trong ngày , mà trọng lượng cơ thể vẫn trong tiêu chuẩn, như người cao 1.7m thì trọng lượng cơ thể khoảng 68-70kg
b-Trường hợp béo phì, tăng cân khi năng lượng nạp vào từ thức ăn nhiều mà nhu cầu năng lượng tiêu thụ ít hơn, là dư thừa calo thì cơ thể bị béo phì, nguyên nhân do ăn nhiều mà lười vận động.
c-Trường hợp sụt cân, giảm cân, khi năng lượng tiêu thụ calo nhiều hơn năng lượng calo nạp vào từ thức ăn.

2-Đường huyết từ đâu đến.
Đường huyết cũng từ thức ăn trong mỗi bữa ăn, bất cứ thực phẩm nào nạp vào cơ thể cũng được cơ thể chuyển ra đường glucose, cho nên sau khi ăn 30 phút, chúng ta đo lượng đường trong máu, hay có máy đo calo, chúng ta sẽ biết trong thức ăn trong bữa ăn đó đã nạp bao nhiêu calo.
Và theo nguyên tắc, nếu calo dư thừa so với calo tiêu thụ thì cơ thể thừa calo sẽ béo phì, nếu lượng thức ăn nạp vào có lượng calo ít hơn nhu cầu tiêu thụ calo trong các hoạt động, thì chúng ta bị sụt cân.

II.Để kiểm soát năng lượng calo nạp vào cơ thể.
Để bảo đảm sức khỏe cho người tiêu thụ. Những thực phẩm được sản xuất đóng gói như ngày nay đều phải tuân thủ luật ghi từng mỗi loại có bao nhiêu calo cho người tiêu dùng biết.
Ngoài ra nếu chúng ta tự nấu ăn, khoa học cũng đã nghiên cứu từng loại thực phẩm tươi sống hay nấu chin, tính theo đơn vị 100g loại thực phẩm đó có bao nhiêu năng lượng calo, để mọi người biết cách tính số lượng liều lượng thức ăn cho đủ năng lượng calo cho mình, để không bị thừa calo làm mình tăng cân béo phì, hay thiếu calo làm cho mình bị sụt cân, cả hai đều làm hại sức khỏe cho mình.

III-Bảng hoán đổi đường huyết ra calo.
Thực phẩm tươi sống có cả ngàn loại, thực phẩm tự nấu cũng có nhiều thứ pha trộn khó biết dược số lượng calo chính xác, nên khoa học đã tính sẵn 2 tiêu chuẩn sau khi ăn 30 phút dùng máy đo đường huyết và chuyển đổi đường huyết ra lượng calo sau mỗi bữa ăn, để người tiêu thụ biết được số lượng calo trong thức ăn nạp vào cơ thể đủ hay thừa hay thiếu.


Cũng nhờ bảng tiêu chuẩn này, mà chúng ta biết chúng ta chọn thức ăn đúng hay sai, thừa hay thiếu, và chúng ta cũng không ngạc nhiên biết cách chữa bệnh tiểu đường ngày nay của tây y thiếu đạo đức làm hại sức khỏe cho mọi người bị nhiều bệnh nan y do thiếu hụt calo, do đường huyết thấp, mà bằng chứng vẫn thường xẩy ra mỗi ngày ngay trước mắt, như các bệnh sau đây đều phải bị uống thuốc chữa nhiều biến chứng của bệnh tiểu đường.
IV-Những trường hợp cụ thể dưới đây chứng minh tiêu chuẩn đường huyết thấp của tây y là cố tình gây hại sức khỏe cho mọi người
Chúng ta lấy thí dụ nhiều trường hợp đáng thương đã được trình bầy trong các phần trước, đỗi đường huyết sau khi ăn xem có đủ lượng calo duy trì sức khỏe cho người tiêu thụ hay không
Thực chứng lâm sàng.
a-Những người có đường huyết thấp gây ra những bệnh như :
1-Nữ 80 tuổi : Hai ngón chân cong, rút.
AH tay trái 144/86/77 TP 131/93/78 đường 5.9mmol/l =334 calo
2-Nam 69 tuổi : Lupus
AH TT 107/64/77 TP 97/68/81 đường 5.7mmol/l= 301calo
3-Nữ 64 tuổi : Chân, lưng, gối đau, ngứa cả người,
AH TT 139/77/77 TP 129/78/75 sau khi ăn, đường thấp 6.3mmol/l=351calo
4-Nữ 60 tuổi : Người nóng, tay lạnh
AH TT104/63/78 TP 100/69/78 đường sau khi ăn 6.3mmol/l=351 calo
5-Nam 51 tuổi : Ăn không tiêu, nhức cổ gáy vai, đầu gối
AH TT 100/69/72 TP 99/65/76 đường sau khi ăn 5.8mmol/l=322 calo
6-Nam 66 tuổi : Cao mỡ máu, miệng lưỡi khô, đau gót chân
AH TT 115/85/69 TP 110/80/71 đường 4.2mmol/l=234calo
7-Nữ 80 tuổi : Loãng xương đau nhức chân trầm trọng
AH TT 123/84/76 TP 135/84/74 đường 5.6mmol/l=311 calo
8-Nữ 75 tuổi : Đau vai đã mổ vẫn còn đau, nhức lưng, đầu gối, nhượng chân
AH TT 135/67/76 TP 145/69/74 đường 6.2mmol/l=345 calo
9-Nữ 60 tuổi : Đau ngực, đau cứng 2 vai chỉ đưa được 2 tay lên ngực
AH TT 124/91/75 TP 124/87/75 đường 6.4mmol/l=356 calo
10-Nữ 66 tuổi : Nhức đầu, chảy máu cam, đau 2 đầu gối
AH TT 135/64/74 TP 129/62/75 đường 5.2mmol/l=289calo
11-Nam 58 tuổi : Nhức 2 vai, 2 bắp chân, cổ bị vướng nghẹn khi nuốt
AH TT 104/64/70 TP 101/66/76 đường 4.6mmol/l=256 calo
12-Nữ 67 : Choáng xoáy đầu, mỏi cổ, đau thắt lưng, đau thận đang nằm viện, ù tai
AH TT 156/81/76 TP 161/84/76 đường 5.8mmol/l= 322 calo


b-Những người có đường huyết thấp nhịp tim thấp gây ra nhửng bệnh như :
1-Nữ 39 tuổi, viêm gan siêu vi B, người mệt mỏi , kém ăn
Áp huyết tay trái 132/84/65 tay phải 126/80/66 , nhiệt độ tay 36 độ C
Áp huyết chân trái137/59/62 chân phải 136/64/64 nhiệt độ chân 34 độ C
Đừong huyết 119mg/dl, uống thêm 5 thìa cà phê đường cát vàng đo lại đường huyết lại thấp hơn 117mg/dl=361 calo
2-Nữ 57 tuổi, bướu cổ, trào ngược dạ dày, yếu chân gối, lưng
AH TT 148/79/69 TP 131/76/66 nhiệt độ tay 35.8 độ C, ĐH 111mg/dl=340calo
Chân T 147/76/73 CP 149/82/67 nhiệt độ chân 33.8 độ C
3-Nữ 39 tuổi, HP dạ dày, u dạ dày, viêm xoang
AH tay trái 112/63/58 tay phải 103/59/58
AH chân T 117/65/58 chân P 120/60/58 ĐH 106mg/dl sau ăn=323calo
4-Nam 70 tuổi, tây y định bệnh hp dạ dày, bị teo, viêm gan B, rối loạn
nhịp tim, giãn tĩnh mạch .
AH .TT 122/63/62 tay phải 117/53/62 nhiệt độ tay 36.4 độ C
AH chân trái 133/54/64 133/58/68, nhiệt độ chân 35.8 độ C, ĐH 111mg/dl sau ăn=340calo
5-Nữ 39 tuổi, nhân xơ tử cung, hở van tim 3 lá
AH TT 109/62/72 tay phải 113/59/66 nhiệt độ tay 33.5 độ C
AH chân trái 129/65/67 124/66/74, nhiệt độ chân 32.5 độ C, DH 120mg/dl=367calo
6-Nữ 37 tuổi, áp huyết thấp, nhịp tim thấp, nhân xơ tử cung
Sau ăn 3h AH tay trái102/62/60, 101/61/55 nhiệt độ tay 26.4 độ C
Chân T 131/74/64 CP 123/66/60 nhiệt độ chân 32 độ C. ĐH 101mg/dl=311calo
7-Nữ 71 tuổi : Co giật 2 chân, đau nhức 2 vai đang uống thuốc đau nhức, ngủ không được,
AH TT 107/70/63 TP 111/64/62 đường 6.1mmol/l=340calo
c-Những người có đường huyết thấp, nhịp tim cao gây ra những bệnh như sau :
1-Nam 27 tuổi.
Con chao thầy con bi bệnh ra nhiều mồ hôi mặt lưng và ngực con bi 10 năm nay rồi nhiều bác sĩ bảo là rối loạn thần kinh thực vật con chữa trị nhiều mà bệnh không giảm con xin thầy giúp con chữa trị con xin cảm ơn thầy
Trước khi ăn : tay trái 130/85/85 tay phải 120/84/80 ĐH 80mg/dL=245 calo
Sau khi ăn : tay trái 122/82/89 tay phải 114/66/88 ĐH 111mg/dL=340calo
2-Nữ 19 tuổi : Bướu cổ, rụng tóc, tim đập mạnh
AH TT 117/60/104 TP 114/63/104 đường sau khi ăn 6.6mmol/l=367calo
3-Nữ 29 tuổi : Hay nhức đầu chóng mặt, hay bị trúng thực ăn không tiêu
AH TT 104/63/79 TP 94/76/79 đường 5.5mmol/l=305calo
4-Nam 92 tuổi : Mắt mờ, tai điếc, mất ngủ đang dùng thuốc áp huyết
AH TT 120/60/89 TP 110/58/90 đường sau khi ăn 6.6mmol/l=367 calo
5-Nam 45 tuổi : Đau cột sống lưng, nhức đầu chóng mặt, tê thấp mấy ngón tay
AH TT 103/70/75 TP 94/68/72 đường 5.2mmol/l=289 calo
6-Nam 53 tuổi : Đau thần kinh tọa bên phải.
AH TT 144/78/84 TP 131/81/87 đường 5.9mmol/l=327 calo
7-Nam 29 tuổi : Chóng mặt, hoa mắt, đau lưng
AH TT 101/68/72 TP 101/67/74 đường 6.4mmol/l=356 calo
8-Nữ 67 tuổi : Đau bao tử, đau lưng, khớp
AH TT 113/69/94 TP 100/70/93 đường 6.3mmol/l=351calo
9-Nữ 65 tuổi : Đau khớp cổ, đau đốt cuối xương sống, cổ chân, ợ hơi, đau ngực, loãng xương, đang dùng thuốc mất ngủ mà không ngủ được
AH TT 115/71/89 TP 114/71/92 đường sau khi ăn 5.3mmol/l=294 calo
10-Nữ 44 tuổi : Đau cổ, cao máu, cao mỡ.
AH TT 180/111/85 TP 168/105/82 đường sau khi ăn 5.3mmol/l=294 calo
11-Nữ 50 tuổi : Áp huyết cao, Tức ngực
AH TT 149/108/80 TP 140/98/81 đường 5.2mmol/l=289 calo
12-Nam 35 tuổi: Đau thận trái
AH TT 121/85/87 TP 128/84/91 đường 5.7mmol/l=316 calo

IV-So sánh calo với tiêu chuẩn đường huyết cũ năm 1979 và tiêu chuẩn đường huyết mới,
a-Tiêu chuẩn đường huyết năm 1979 của WHO ;
Khi đói 140mg/dl=6mmol/l =334,37 calo,
Khi no 200mg/dl=11mmol/l=613,1calo so với tiêu chuẩn 1 bữa phải 1000calo
b-Tiêu chuẩn đường huyết 3,9-5.9mmol/l =
223,78 calo-327 calo. Tính theo năng lượng calo đây là tiêu chuẩn giết người thầm lặng
V-Cách chọn thức ăn cung cấp đủ calo mà không cần bổ sung đường.
Chúng ta muốn ăn thức ăn gì, đánh tên thức ăn hỏi AI hay Google hỏi bao nhiêu calo, và chúng ta chọn thức ăn cho đủ nhu cầu tiêu thụ, phải bằng nhu cầu thức ăn nạp vào mà không cần uống thêm bổ sung đường
Thí dụ hỏi Google :

Các món cơm – xôi – bún – phở chay:
• Phở cuốn chay: Khoảng 79 Calo/cái.
• Bánh mì: Gần 267 Calo cho 100 gram.
• Cơm gạo lứt: Xấp xỉ 112 Calo/100 gram.
• Mỳ ý sốt kem nấm: Khoảng 311 Calo/100 gram.
• Cuốn bún đậu: Gần 82 Calo/cái.
• Bánh cuốn nhân mộc nhĩ: Xấp xỉ 231 Calo/100 gram.
• Bánh bột lọc chay: Khoảng 69 Calo/cái.
• Nui xoắn sốt cà chua: Gần 254 Calo cho 100 gram.
• Mì xào rau nấm: Xấp xỉ 278 Calo/100 gram.
• Miến trộn chay: Khoảng 190 Calo/100 gram.
Các món rau
• Hỗn hợp rau củ luộc: súp lơ, bông cải xanh, cà rốt, đậu bắp,… : Khoảng 100 Calo/100 gram.
• Ngọn bí xào tỏi: Gần 180 Calo/100 gram.
• Chả rong biển: Xấp xỉ 62 Calo/ chiếc.
• Canh rau cải: Khoảng 175 Calo/1 bát.
• Đậu cove xào nấm: Gần 189 Calo/100 gram.
• Ngọn su su xào: Xấp xỉ 178 Calo/100 gram.
• Salad xà lách mù tạt: Khoảng 146 Calo/100 gram.
• Cải xoong xào tỏi: Gần 200 Calo/100 gram.
• Nem chay rán: Xấp xỉ 57 Calo/ chiếc.
• Canh cải cúc cà chua : Khoảng 190 Calo/1 bát.
• Mướp xào giá đỗ: Gần 109 Calo/100 gram.
• Rau luộc: rau muống, rau cải các loại, rau dền,…: Xấp xỉ 70 – 90 Calo/100 gram.
Các món hạt – củ – quả
• Nộm chanh leo: Khoảng 169 Calo/100 gram.
• Salad rau củ hạt bí: Gần 163 Calo/100 gram.
• Rau củ nướng muối tiêu: Xấp xỉ 127 Calo/100 gram.
• Sụn dừa sốt cay: Khoảng 145 Calo/100 gram.
• Su hào xào mộc nhĩ: Gần 162 Calo/100 gram.
• Salad củ đậu hạnh nhân: Xấp xỉ 154 Calo/100 gram.
• Dưa chuột trộn giấm: Khoảng 86 Calo/100 gram.
• Củ sen hầm nấm, đậu đỏ: Gần 279 Calo/100 gram.
• Su su xào nấm: Xấp xỉ 197 Calo/100 gram.
• Bơ lạc: Khoảng 588 Calo/100 gram.
Các món ăn chay được làm từ nấm
• Nấm áp chảo lá chanh: Khoảng 182 Calo/100 gram.
• Chả nấm thì là: Gần 69 Calo/chiếc.
• Canh chua nấm hương: Xấp xỉ 201 Calo/ 1 bát.
• Nấm nướng xá xíu: Khoảng 200 Calo/100 gram.
• Nấm chiên: Gần 219 Calo/100 gram.
• Nấm hấp sả: Xấp xỉ 128 Calo/100 gram.
• Sốt vang khoai nấm: Khoảng 285 Calo/100 gram.
• Nộm ngó sen nấm tuyết: Gần 137 Calo/100 gram.
• Nấm kho tiêu xanh: Xấp xỉ 179 Calo/100 gram.
• Đỗ quả xào nấm: Khoảng 138 Calo/100 gram.
• Nấm nướng ngũ vị: Gần 157 Calo/100 gram.
Các món đậu
• Đậu sốt nấm: Khoảng 160 Calo/100 gram.
• Đậu sốt cay: Gần 103 Calo/100 gram.
• Canh đậu phụ: Xấp xỉ 163 Calo/1 bát.
• Sữa đậu nành: Khoảng 80 Calo/1 cốc.
• Đậu chiên: Gần 125 Calo/100 gram.
• Đậu nhồi rau củ sốt cà chua: Xấp xỉ 156 Calo/100 gram.
• Đậu hầm khoai tây sa tế: Khoảng 198 Calo/100 gram.
• Đậu chiên sốt cà chua: Gần 10 Calo/100 gram.
• Canh kim chi đậu phụ: Xấp xỉ 130 Calo/1 bát.
• Đậu hũ chiên xu: Khoảng 124 Calo/100 gram.
Các món canh
• Súp ngô nấm: Khoảng 209 Calo/1 bát.
• Canh bí đỏ hạt sen: Gần 207 Calo/1 bát.
• Khoai sọ hầm đậu đỏ: Xấp xỉ 244 Calo/1 bát.
• Súp bông cải khoai tây: Khoảng 134 Calo/1 bát.
• Súp đậu hầm: Gần 174 Calo/1 bát.
• Cảnh cải thảo nấu với đậu non: Xấp xỉ 144 Calo/1 bát.
• Súp bí đỏ: Khoảng 255 Calo/1 bát.
• Canh chua dọc mùng giá đỗ: Gần 167 Calo/1 bát.
• Canh rong biển nấu chua: Xấp xỉ 161 Calo/1 bát.
• Canh măng tươi: Khoảng 131 Calo/1 bát.
• Canh rau ngót nấu với ngô: Gần 118 Calo/1 bát.
Các món chay khác
• 100g chả chay: 100g chả chay cung cấp 130 Calo.
• Sườn chay: 100g sườn chay có 290 Calo.
• Mắm chay: 100ml mắm chay chứa 67 Calo.
• Thịt chay: 100g thịt chay cung cấp 160 Calo.
• Sườn non chay: 100g sườn non chay có 260 Calo.
• Bò lát chay: 100g bò lát chay cung cấp 270 Calo.
Sau khi chọn thức ăn đủ 1000 calo mỗi bữa, 30 phút sau đo đường huyết, thì 1000 calo chúng ta sẽ thấy lượng đường huyết tương đương 18mmol/l=324mg/dl, mà không phải đường tinh luyện, thì chúng ta mới có đủ sức khỏe để làm việc và duy trì sức sống trường thọ, với điều kiện phải biết cân bằng lượng calo nạp vào từ thức ăn, và lượng calo tiêu thụ mất đi do làm việc lao động chân tay hay trí óc không làm tăng câm hay không làm giảm cân, nên phải cân trọng lượng cơ thể nếu nặng hơn chiều cao là dư thừa calo tích trữ trong cơ thể thành mỡ thừa, ngược lại nếu bị sụt giảm cân như mất cân từ 10kg là có dấu hiệu ung thư .
Bản thân tôi cứ ăn uống thoải mái, trọng lượng không thay đổi, đường huyết sau ăn lúc nào cũng trên 200mg/dl. Nếu có nhu cầu tiêu thụ nhiều calo để xúc dọn tuyết ngập cao chặn lối cửa ra vào mỗi khi mùa đông thì đường huyết của tôi cần phải 400mg/dl=22mmol/l=1226 calo, sau khi xúc dọn 10 phút thấy chóng mặt, đo lại đường huyết còn 6mmol/l.
Kết luận :
Cơ thể chúng ta cần tiêu thụ calo là năng lượng của sức khỏe để đi làm việc kiếm tiền nuôi gia đình, phải đủ 2000 calo/ngày do 2 bữa ăn cung cấp, nói tóm lại cứ mỗi 6 tiếng cơ thể hoạt động đã tiêu hao mất 1000 calo.
Như vậy cơ thể tiêu hết 1000 calo có chết được không ?. Không chết, khi mình không nạp calo từ thức ăn, do nhịn ăn, cơ thể tự động đốt cháy mỡ dư thừa thành đường chuyển đổi thành calo để duy trì hoạt động của tuần hoàn tim mạch, hô hấp, nuôi thần kinh não, lúc đó trở thành thiếu năng lượng calo nạp vào từ thức ăn không có mà cơ thể lại mất calo thì chúng ta bị sụt cân.
VI-Cách giảm cân bằng cách đốt cháy calo dư thừa bằng thể dục có kiểm soát
Sau khi ăn mà đo đường huyết 20 mmol/l, đổi ra calo= 1115 calo, sau ăn chúng ta tập đạp xe hay đi bộ trên máy có máy đo lượng calo tập bị mất đi số calo thừa, như sau 15 phút hay 30 phút máy chỉ 200 calo, là lượng calo cơ thể mất đi thì cơ thể còn 915 calo, thử lại đường huyết còn 16.4mmol/l, như vậy sau khi tập đường huyết mấ/t đi đo lại đường huyết đả tụt xuống còn 16.4mmol/l thì ngưng.
Nhưng chúng ta bị ngành y chữa bệnh tiểu đường hù dọa đường huyết cao vượt tiêu chuẩn của họ là bị bệnh tiểu đường là đang áp dụng phương pháp chữa bệnh thiếu đạo đức, để gây ra những trường hợp khiến bệnh nhân cơ thể thiếu năng lượng, thiếu sức sống, trầm cảm đi đến tự tử, vì đã có nhiều người nản chí cho rằng dù tập thế nào cũng không làm cho tiêu chuẩn đường huyết lọt vào tiêu chuẩn của họ được mà cơ thể càng suy nhược dẫn đến chán đời muốn tự tử, hoặc nặng nữa là ung thư.
Nguyên nhân tại sao ung thư ?
Tây y giải thích, ung thư không lây từ người này sang người khác, mà di truyền do cha mẹ kiêng đường, sợ tiểu đường ăn ít, bỏ ăn không dám để đường cao hơn 6mmol/l, như vậy thức ăn không đủ nuôi tế bào duy trì sự sống, thiếu sức sống. Các tế bào ung thư không phải là vi trùng, vi khuẩn, vi rút, tây y định nghĩa là tế bào ăn tế bào. Trường hợp này có thể xảy ra không. Có !
Chúng ta lấy ví dụ khi chúng ta vượt biển trong 2- 3 tháng hết lương thực mà vẫn còn lênh đênh trên biển vừa đói vừa khát, nếu không gặp được tầu nào cấp cứu cung cấp lương thực nước uống, thì chúng ta phải ăn thịt lẫn nhau để sống, gọi là người ăn thịt người, thì tế bào cũng vậy, khi cơ thể không còn đủ sức ăn uống nạp năng lượng bằng thức ăn, thì tế bào bị đói phải tự ăn lẫn nhau. Có nghĩa tế bào ung thư là tế bào bị bỏ đói, thì cách chữa không phải tiêu diệt tế bào ung thư mà phải phục hồi sự sống cho tế bào theo Tinh-Khi1-Thần.
Trong 3 yếu tố này thì yếu tố Thần ưu tiên, có thần là có sự sống, rất quan trọng, trong lịch sử đã chứng minh khi quân Nguyên Mông xâm lăng nước ta, vua là thần của một nước, nếu nhu nhược bỏ chạy thoát thân một mình thì náo loạn lòng dân, dù gặc đã gần kinh đô, nhưng Trần thủ Độ đã trấn an vua : Khi đầu thần chưa rơi xuống đất thì bệ hạ đừng lo. Như vậy thần vững mới chỉnh đốn quân và có kế sách chống giặc.
Khi một người mất thần da mặt xanh tái mét, lo sợ, có thần thì da mặt hồng hào, thì thần trong dông y khí công liên quan đến 3 yếu tố là nhịp tim hòa hoãn, không sợ hãi, nhịp tim không cao quá, không thấp quá, liên quan đến nhiệt độ cơ thể không nóng, không lạnh, liên quan đến đường huyết phải cấp cứu tạm thời bằng uống đường cát vàng cho nhịp tim tăng, cho thân nhiệt tăng, cho sắc mặt hồng hào, sau đó có kế sách nạp thức ăn có nhiều calo để bổ máu làm tăng tâm trương, có thần là nhịp tim trong tiêu chuẩn có tâm trương trong tiêu chuẩn là lượng thức ăn thì cơ thể mới có khí lực làm tâm thu tăng.
Như vậy trong các trường hợp ung thư đều mất tinh, mất khí, mất thần, thường có áp huyết 80/55mmHg nhịp tim thấp 50 hay nhịp tim cao hơn 100
Mất thần là thiếu đường, mất đường mất calo. Mất tinh là mất lượng thức ăn nạp vào cơ thể bằng thức ăn bổ máu, chứ không phải nhịn ăn làm mất máu khiến tế bào đói lại sinh ra tế bào ăn tế bào,, khi có thần, có tinh, thì khí lực là sức khỏe làm tâm thu tăng.
Sau khi phục hồi sự sống cho tế bào khỏe mạnh thì áp huyết trở lại tiêu chuẩn 120/80mmHg 75
VI-Tâm sự của một bệnh nhân chán nản vì cố làm hạ đường huyết theo tiêu chuẩn của tây y,
CON NẢN QUÁ RỒI THẦY ƠI ! ĐH CON THẤP QUÁ
Duc duy Nguyen
Mon, Jul 7, 12:05 PM (1 day ago)

Thầy ơi !
Lời đầu tiên con kính chúc thầy dồi dào sức khỏe và vạn sự an lành cùng gia quyến với thầy
Con đã theo thầy được một thời gian và đã học được nhiều thứ hữu ích để khám và chữa bệnh cho bản thân và gia đình. Chỉ dẫn cho người khác thì rất dễ nhưng cho tới hôm nay, tự chữa trị cho bản thân con lại quá khó mà chỉ có 1 vấn đề: Đường huyết thấp
Thời gian qua, con hiểu bản thân con có ĐH thấp nên luôn bổ sung đường cát vàng để cho đủ trong tiêu chuẩn:
- khi đói: 6-8mmol và no: 8-12.
- AH tiêu chuẩn của con: 110-120/ 65-70/ 65- 70
Giả sử con có uống thêm nhưng chưa đủ, hay, ít khi kiểm tra chỉ số ĐH bằng máy đo sau uống nhưng con nghĩ: quá nhìu lần và ngày nào con cũng vậy thì sau 1 thời gian quá dài sẽ đủ đường thay vì người khác uống có kiểm soát thì họ sẽ đủ đường sau thời gian ngắn: 1 tháng, 2, hay thậm chí 3 tháng
Tuy nhiên, mấy lần con không dám liên hệ vì biết thầy rất bận nên con ngại không dám làm phiền thầy nên con vẫn kiên trì uống tới giờ mà ĐH vẫn rất thấp là 1 điều cực kỳ vô lý, chắc chắn là có vấn đề trong này làm con không thể tiếp tục uống nữa và uống nhiều quá làm con sợ luôn...
Hôm nay con quá nản, không thể kiểm soát được nữa nên mới mạnh dạng liên hệ thầy. Mong thầy giành chút thời gian quý báu mà từ từ, chậm rãi xem qua bài con để chỉ dạy cho con thấy được cái sai.
Con kính gửi thầy các số liệu:
1. 13H30: ( đói ) ĐH = 4.6
14H00: ( sau thêm 6 thìa để lên 8.0) ĐH = 7.9 (( OK ))
Tay út T = 36⁰4 , Chân út C = 36⁰3
2. 14h45: ( sau ăn 30p ) ĐH = 7.0
T = 36⁰3, C = 36⁰2 Bụng B = 34⁰3, 34⁰5...36⁰1
15h10: ( sau khi thêm 9 thìa để ĐH lên 12.0 ) ĐH = 6.9
T = 36⁰4 , B = 34⁰5, 34⁰6...36⁰0
15h40: ( sau thêm 10thia để ĐH lên 12.0 ) ĐH = 7.1
T = 36⁰5 , C = 36⁰3 , B = 36⁰0,...34⁰8
16h20: ( sau ăn 2h ) ĐH = 6.0
AH Tt = 120- 79 - 81
T = 36⁰4, C = B = 36⁰2
17h00: (sau thêm 7 thìa cho lên 10.0 vì đã ăn 2h) ĐH = 6.1
T = 36⁰4, C = 36⁰2, B = 36⁰0,...34⁰6

18h00: ( o uống thêm đường ) ĐH = 6.2
* T = 36⁰5, B = 35⁰7, C = 36⁰2
18h55: ( sau ăn 5 tiếng, o thêm đường ) ĐH = 7.7
T = 36⁰3, C = 35⁰2, B = 36⁰1
AH T trái = 118- 73- 79
Kính mong thầy xem dùm con và chỉ ra cho con cái sai để con có thể tự uống đường - 1 cái quá đơn giản mà đã lâu rồi con không làm được. Nhân tiện xin thầy trả lời dùm con mấy câu hỏi sau:
1. vì sao con uống đường trước ăn và sau ăn như vậy đã lâu rồi mà giờ con càng uống ĐH càng thấp, ăn xong cũng bị tụt ?? Nếu là đường âm thì qua thời gian dài rồi nó phải cân bằng hết rồi sao giờ lại còn ??
2. Con cứ bổ sung đường vài lần sau ăn cho đủ lên 12.0 như vậy qua 1h, 2h thì con thấy nó o đúng vì phải mất 2 tiếng là điều bất thường, kỳ cục và trong 2h đó cơ thể đã không đủ đường để chuyển hóa cho đến khi nhận đủ đường. Con thấy chắc chắn con đã sai mà không biết ở đâu
3. ĐH thấp mà nhiệt độ ngón tay, có khi là ngón chân con vẫn báo đủ vậy thầy ( > 36⁰, 36⁰4, 36⁰2 ) , trong khi bụng thì nhìều lần không đo được. Nếu con đo AH sau ăn để ktra nhịp tim trong tiêu chuẩn thì nhìu lần > tiêu chuẩn nên con o đo
4. Tại sao con không uống đường, để sau 1h đo trước đó hoặc hơn thì ĐH lại lên ?? Thành ra, sau 4h của bữa ăn trước, con đo ĐH trước ăn bữa tiếp theo nó không đúng, nhìu lúc con tưởng đủ rồi nên trươc ăn bữa tiếp theo con không uống nữa
Kính mong thầy chia sẻ thật cụ thể giúp con để con tự uống đường đúng cách và để con thêm hỉu biết chỉ cho mọi người bệnh chớ con cứ băn khoăn, đau khổ với sức khỏe hoài mất thời gian và công sức của con nên con hy vọng thầy chia sẻ 1 lần là mọi bệnh nhân ở hoàn cảnh nào, thể trạng nào, trình độ nào cũng tiếp thu và áp dụng được. Con vô minh, trí tuệ hạn hẹp nên xin thầy đừng trách con nhé
Con xin chân thành cảm ơn thầy nhìu
Con ( duy )
Trả lời :
Không đo áp huyết 2 tay trước và sau khi ăn 30 phút xem chức năng chuyển hóa, xem ăn đúng và đủ năng lượng không, thức ăn có chất bổ máu không, trong thức ăn có chất xơ để duy trì lượng máu ổn định không.
Trong thức ăn có chất phá máu hay làm hạ đường huyết không. Cân trọng lượng cơ thể trước ăn , sau ăn xem tăng cân hay giảm cân.
Thức ăn là quan trọng, đủ thức ăn thì không cần phải uống thêm đường bổ sung.
Uống đường không đúng lúc làm tuyến tuỵ thường trực phải tiết insulin làm hạ đường và chuyển đường thành mỡ.
Hãy buông bỏ tất cả, không cần để ý đến đường bao nhiêu, cứ chọn thức ăn cho 1 bữa ăn đủ 1000 calo ,thì đường bao nhiêu cũng không bị tiểu đường, miễn là không uống thêm đường bổ sung thừa mà không có thức ăn protein để biến thành máu đường dư thừa sau 1 tiếng sẽ chuyển thành mỡ, và theo nước tiểu ra ngoài, nên càng uống càng mất đường thành mỡ mà không thành máu, làm cho người mập hay người gầy vẫn có nhiều mỡ trong gan, hay bệnh gan nhiễm mỡ.
Đừng theo tiêu chuẩn đường huyết thiếu đạo đức gây ra nhiều bệnh nan y để bán thuốc chữa nhiều bệnh do biến chứng của bệnh thiếu năng lượng calo
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7022
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 5 Tháng 7 10, 2025 11:34 pm

PHẦN 20-Đường ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch như thế nào?

I-Cách dùng đường đúng và sai.

A-Không phải đường lúc nào cũng là kẻ thù thầm lặng có hại cho sức khỏe.

1-Đường điều chỉnh tăng-giảm cân.
Mọi người đều biết, dù có ăn đường hay không thì trong thức ăn bất cứ loại thức ăn nào nạp vào cơ thể cũng đều được phân loại chuyển hóa thành glucose, protein, lipid, oxy, Bốn chất này đông y gọi là tinh-khí-thần được hiển thị bằng máy đo áp huyết chỉ rõ lượng khí sau khi ăn làm tăng khí hay giảm khí nhìn vào kết quả số áp huyết tâm thu, còn lượng thức ăn nạp vào cơ thể thừa hay thiếu khi nhìn vào số áp huyết tâm trương tay trái, và thức ăn có đủ chất bổ máu hay thiếu khi nhìn vào áp huyết tâm trương bên tay phải, còn thần thì nhìn vào kết quả của 3 yếu tố nhịp tim, đường huyết, và nhiệt độ thân nhiệt, xem thần đủ hay thiếu, thần đủ thì phải có nhịp tim nằm trong tiêu chuẩn 70-80, thân nhiệt đo ở đầu ngón tay chân đều nằm trong tiêu chuẩn bình thường 36-36,5 độ C, thì dù đo đường huyết có bao nhiêu cũng là đủ đường mà cơ thể cần, và trọng lượng cơ thể sau khi chuyển hóa thức ăn thành năng lượng cho cơ thể hoạt động, thì sau khi ăn trọng lượng cơ thể tăng, khi đói trọng lượng cơ thể trở về trọng lượng vẫn nằm trong tiêu chuẩn so với chiều cao của cơ thể, như mình cao 1,65m thì trọng lượng cơ thể khoảng 63-65kg khi đói, như sau khi ăn trọng lượng tăng như 66kg khi no, khi đói trọng lượng cơ thể trở về tình trạng đói là 64-65kg là đúng.
Có 2 trường hợp xảy ra là tăng cân hay giảm cân sau khi cân nặng trong tình trạng đói.
a-Trường hợp tăng cân sau khi ăn thức ăn tiêu hóa hết trở về tình trạng đói mà trọng lượng lại tăng như 66-67kg, thì lúc đó tây cho kết luận cơ thể thừa đường thì tăng cân béo phì. Thì phải đo lượng đường-huyết là bao nhiêu, đổi theo bảng calo, để bữa ăn kế tiếp chọn thức ăn có ít calo cho giảm cân thì sau khi ăn cân trọng lượng trở vể 63-65kg, đo đường huyết và chuyển ra năng lượng calo, thì biết cách chọn calo thực phẩm mình ăn vào có kết quả.

b-Trường hợp bị giảm cân, sau khi ăn thức ăn tiêu hóa hết sau 4 tiếng, cân lại trọng lượng cơ thể bị sụt cân còn 60kg là mình đã chọn thức ăn sai, phải đo đường huyết xem bao nhiêu đổi ra calo, thấy lượng calo nạp vào từ thức ăn không đủ, ít hơn năng lượng tiêu thụ calo khi cơ thể hoạt động làm việc thì kết quả mình bị sụt cân, có thể mình ăn thức ăn không đủ lượng calo, hay có thể do mình bỏ bữa không nạp năng lượng calo mà vẫn làm việc làm tiêu hao calo.

2-Nguyên nhân gây bệnh và làm tăng số người bị tiểu đường
Như vậy năng lượng calo nạp vào từ thức ăn đủ, không cần nạp thêm đường glucose bổ sung, thì không thể kết luận đường là thủ phạm giết người thầm lặng.
Vì một người ít hoạt động tiêu thụ ít calo, nhưng cũng phải đủ đường cho tim tuần hoàn máu, cho phổi thở, cho thận lọc máu, chỉ ăn rồi nằm, thì ít nhất cũng phải cần 1000calo /ngày, chia làm 3 bữa ăn, mỗi bữa ăn khoảng 330 calo, đổi ra đường huyết là 6mmol/l, thì cũng không bị sụt cân, nhưng nếu chỉ ăn ngày 2 bữa thì mới có 660calo, dù đo đường huyết là 12mmol/l, thì vẫn bị sụt cân, dù đường huyết cao, mà tiêu chuẩn đường huyết hiện nay chỉ cho phép 6mmol/l, nên cơ thể thiếu calo bị sụt cân gây ung thư do tế bào bị đói, tây y cho rằng tế bào ăn tế bào gọi là ung thư, thì thủ phạm giết người thầm lặng không phài do đường cao, mà do tiêu chuẩn đường huyết thấp, nếu bác sĩ nào không hiểu mà tiêm insulin làm chết người là người không có lương tâm thiếu đạo đức chính là kẻ sát nhân có bằng cấp được ngành y bảo kê thoát tội.

3-Nguyên nhân làm hỏng chức năng tuyến tụy.

a-Do cách chữa theo tiêu chuẩn đường huyết thấp của ngành y kinh doanh.
Ngay sau khi ăn 30 phút, đo đường huyết thấp, đổi ra năng lượng calo thấy thấp, thì phải bổ sung ăn thêm thức ăn làm tăng calo, nhưng đôi khi bao tử đầy hay vì lý do không thể nạp thêm calo từ thức ăn, thì mọi người có thói quen uống thêm đường cho đủ đường chuyển hóa nốt thức ăn còn lại trong bao tử chưa chuyển hóa hết, để sau 4 tiếng, đo đường huyết còn đủ 500 calo để duy trì sức khỏe cho cơ thể mà không bị giảm cân, thì 500 calo tương đương đường huyết 9mmol/l, nếu cân trọng lượng cơ thể tăng cân thì biết cơ thể vẫn thừa đường và calo, ngược lại nếu cân nặng bị giảm sụt cân, thì đường 9mmol/l vẫn thiếu, mà tây y tiêm insulin là mất thêm đường mất calo, đó là lý do mọi người không bị tiểu đường mà phải uống hay tiêm thuốc hạ đường suốt đời môt cách vô lý làm chết oan nhiều người nguyên nhân tại cái tiêu chuẩn đường huyết thấp của ngành y kinh doanh thiếu đạo đức gây ra hại người hơn là cứu người.

b-Do bệnh nhân uống đường sai làm hư tuyến tụy.
Khi đo đường huyết thiếu sau khi ăn 30 phút, đổi ra calo thấp, vì lý do nào đó không ăn thêm được để làm tăng calo, thì nhiều người phải uống thêm đường bổ sung là đúng, nhưng không biết cách uống đường, nếu khi thấy sau khi uống đường đã tăng lên như 10mmol/l, nhưng đường huyết lại bị tụt thấp ngay sau 1 tiếng là chúng ta đã biết sai, theo kinh nghiệm chỉ mỗi giờ cơ thể hoạt động trong lúc nghỉ ngơi chỉ mất 10mg/dl, thì không thể nào sau 1 giờ đường huyết lại tụt mất nhiều chỉ còn 6mmol/l, thì cơ thể của chúng ta chỉ còn 334 calo, nên sức khỏe càng yếu, mà càng uống đường càng tụt, thì phải ngưng, vì đấy là cách uống đường sai, calo càng thấp lại càng sụt cân dù uống đường nhiều, tại sao vậy ?
Vì theo lý thuyết của tây y là glucose phối hợp với thức ăn protein biến thành máu, thì insulin mới dẫn đường và máu đến nuôi tế bào, sau khi tế bào nhận thêm máu và năng lượng glucose đủ để cho tế bào hoạt động, còn lại thừa đường bao nhiêu thì insulin dẫn về gan biến thành đường dự trữ glycogen chừng 100g đường còn dư thừa glucose nữa thì biến thành mỡ, dư thừa mỡ thì gan bị bệnh gan nhiễm mỡ.
Như vậy chỉ uống đường glucose không, mà không có protein thì đường trong máu thừa, tuyến tụy phải tiết insulin để dẫn đường cất vào gan biến thành mỡ, chúng ta đo đường lại thấy thiếu, lại uống đường làm mệt tuyến tụy phải làm việc nhiều để cất đường về gan biến thành mỡ, làm tuyến tụy phải làm việc suốt ngày đêm để điều chỉnh lượng đường trong máu, nên tuyến tụy bị sưng viêm dẫn đến ung thư tụy. Cách uống đường đúng là uống đường phải ăn kèm ít protein như pha bột whey protein isolate, hay ngay sau khi uống đường phải ăn 1 trái táo, hay củ khoai vừa có protein, vừa có chất xơ, và để cho đường chuyển hóa chậm không bị tụt đường mà sẽ biến thành máu và làm tăng calo bền vững. thì tuyến tụy không phải làm việc nhiều sẽ không bị hư tuyến tụy.

b-Do tây y tiêm insulin khi đường cao hơn tiêu chuẩn quy định.
Làm cơ thể thiếu năng lượng calo làm chết oan nhiều người.
Và lấy cớ chết người này để che tôi lỗi của mình lại hù dọa do đường huyết cao làm chết người.

c-Khi đường huyết thấp thật sự, tây y lại chữa sai theo 2 cách.
Bất cứ ở đâu nếu có người bị đường huyết tụt thấp hay thiếu đường có dấu hiệu chân tay lạnh, run giật, hôn mê cần phải cấp cứu bằng đường tối đa 10 thìa cà phê đường cát vàng, nạn nhân sẽ tỉnh hẳn. sẽ không bị biến chứng tai biến do thiếu máu não hay máu đông xơ vữa động mạch gây thiếu máu cơ tim cục bộ, và ngừa đường huyết tụt nhanh sau khi uống đường thì ăn thêm quả táo, hay củ khoai vừa có protein vừa có them năng lượng calo.
Khác hẳn với cách cấp cứu sai lầm của tây y như dưới đây :

Cách thứ nhất : tiêm insulin dẫn đến suy tim đột quỵ.
Như đường huyết 6mmol/l, theo tiêu chuẩn đường huyết vẫn cao hơn 5.9mmol/l bị kết tội bị bệnh đường huyết cao phải tiêm insulin xuống còn 4.5mmol/l chuyển ra calo chỉ còn 250 calo, làm cơ thể thiểu năng lượng, suy tim, tim ngưng đập, đột quỵ dẫn đến tử vong.

Cách thứ hai tiêm glucagon làm suy thận : Thay vì phải tiêm đường glucoza làm tăng đường huyết trực tiếp để cứu tim không bị đột quỵ và làm tăng năng lượng calo cho bệnh nhân, thì lại không tiêm glucoza, mà lại tiêm glucagon là sai.
Tại sao, glucagon chỉ giống như một vị tướng bù nhìn trong tay không có quân, có nghĩa chức năng của glucagon là ra lệnh cho gan tiết đường dự trữ glucogen hay mỡ chuyển ra đường glucose để giúp tim phổi hoạt động, nhưng chỉ ra lệnh thôi chứ kho gan không còn đường dự trữ, không còn mỡ dự trữ thì làm gì có đường, như vậy tuyến thượng thận phải rút đường trong xương tủy nuôi tim, khiến xương mất đường gây ra loãng xốp xương là một biến chứng của bệnh thiếu đường, dẫn đến suy thận phải lọc thận, nhưng trước khi lọc thận thì da chân thiếu đường kết cấu với lipid để bảo vệ da, nên tế bào da bị hư mục sinh ra hoại tử cưa chân.

B-Thiếu đường làm mất chức năng của hệ miễn dịch .

Theo đông y, hệ thống miễn dịch cần rất nhiều đường và năng lượng calo để phòng chống bệnh và ngừa lây lan.
Nên chúng ta nghiên cứu cho biết chứ không áp dụng, vì khác với lý thuyết tây y khi nghiên cứu đã lầm lẫn khi kiêng đường làm gì có đường cao nạp vào mà nghiên cứu từ những người bị tiểu đường bị đường cao do cơ thể mất đường, nên không đáng tin cậy.
Ngoài ra , môt nghiên cứu khác trong phần III bên dưới các nhà khoa học còn đang nghi ngờ sự liên hệ của đường và hệ thống miễn dịch còn chưa chắc chắn, nên lý thuyết của tây y còn nhiều mâu thuẫn.
Theo lý thuyết tây y nói vế hệ miễn dịch chia làm 2 loại :

1-Cơ thể chúng ta có hệ miễn dịch bẩm sinh không có trí nhớ.
Hệ thống miễn dịch bẩm sinh là hệ thống đầu tiên phản ứng trong vòng vài phút đến vài giờ khi có tác nhân lạ xâm nhập.
Nó tạo ra phản ứng gây sốt và khởi phát tình trạng viêm hữu ích trong thời gian ngắn đối với các chấn thương hay bệnh cấp tính.
Tuy nhiên, về lâu dài, tình trạng viêm đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của một số bệnh như bệnh tự miễn, bệnh tim mạch, đái tháo đường, bệnh thận mãn tính, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và các rối loạn thoái hóa thần kinh. Phản ứng miễn dịch bẩm sinh không có trí nhớ, nghĩa là nó phản ứng theo cùng một cách với tất cả các tác nhân gây bệnh gặp phải.

2-Hệ thống miễn dịch thích nghi có trí nhớ, còn được gọi là "miễn dịch mắc phải".
Mất nhiều ngày đến nhiều tuần để phát huy tác dụng. Hệ thống này rất đặc hiệu và đa dạng đối với từng loại tác nhân gây bệnh mà nó gặp phải, nghĩa là nó tạo ra phản ứng riêng biệt với từng tác nhân gây bệnh sau khi đã được "mồi" hoặc tiếp xúc với tác nhân gây bệnh đó. Hệ thống miễn dịch thích nghi có trí nhớ, nghĩa là nó sẽ phản ứng nhanh hơn vào lần tiếp theo bạn tiếp xúc với tác nhân gây bệnh đó.

Trên đây chỉ là lý thuyết của tây y, khác với thực tế, như cùng bị gió đưa virus cúm xâm nhập vào đường hô hấp của mọi người, chạm vào da của mọi người thì mọi người đều phải bị bệnh cúm, đều phải bị sốt, nhưng tại sao có người bị cúm, có người không, hay có người mới bị sốt một ngày đã khỏi, có người bị nhiều ngày mà không khỏi dẫn đến tử vong. Đó là nhờ hệ miễn nhiễm có đủ kháng thể lgG, IgM là cơ thể đã có sẵn đường, ngăn chặn được cúm, dù không tiêm vaccin phòng ngừa, vì vaccin đúng ra theo lý thuyết sẽ làm tăng cường hệ miễn nhiễm chống bệnh, nhưng muốn ra lệnh tăng cường hệ miễn nhiễm vẫn thất bại vì cơ thể thiếu đường làm sao có tế bào kháng thể.
Cũng giống như vậy, khi cơ thể tụt đường huyết hay thiếu đường, thay vì tiêm thêm đường làm tăng đường huyết làm tăng thân nhiệt chống máu đông do nhịp tim hạ thấp thì tim thiếu máu tuần hoàn gọi là thiếu máu cơ tim cục bộ sẽ ngừng đập, bị đột quỵ tử vong, vì tiêm glucagon thì nó cũng ra lệnh cho cơ thể tăng đường, nhưng cơ thể kiêng đường làm gì có đường để tăng, nên phải kích thích thận rút đường trong xương tủy, dẫn đến loãng xương, suy thận, khiến tỷ lệ lọc cầu thận giảm dẫn đến lọc thận, rồi ghép thận, cuối cùng tử vong, nguyên nhân kiêng đường, mà đo đường càng cao là cơ thể càng mất đường tây y lại đổ thừa tử vong do đường huyết cao để hù dọa cho mọi người sợ đường.

Trái lại, những bệnh cảm cúm theo đông y áp dụng ngũ hành tương khắc, để lập lại trật tự quân bình của chức năng tuần hoàn của tạng phủ hòa hợp để không còn hành nào khắc hành nào, chứ không tiêu diệt hành nào cả, nên gọi là tương sinh, tương khắc.
Thí dụ virus bay trong gió, có nghĩa là phong có tà khí là virus gọi là phong tà, lọt qua mũi, hay chạm vào da thịt, vào máu, do đó tây y thử máu biết ngay máu nhiễm virus, như vậy gan trong cơ thể chứa máu nhiễm virus, thì gan trong cơ thể bị phong tà sẽ tấn công tỳ vị, có nghĩa gan mộc sẽ tấn công tỳ vị thổ, mộc khắc thổ, nếu thổ yếu thì mộc thắng sẽ đưa tà khí virus hại phổi, hại thận hại gan hại tim. Thổ tỳ vị muốn chống lại gan mộc, không cho mộc thắng mình thì tỳ vị thổ phải mạnh, tỷ vị thổ muốn mạnh thì phải cần nhiều chất ngọt là đường, do đó uống nhiều đường, ngăn chặn virus không phát triển được, tại sao, cũng theo quy luật tương khắc, mộc mạnh sẽ khắc thổ, thì bây giờ thổ mạnh sẽ tương khắc lại thủy là thận, mà nếu thận thủy yếu, là mẹ của gan mộc, lúc đó mẹ yếu thì gan cũng yếu, như vậy virus trong gan không lây lan được, đó là ngăn chặn không lây lan bị giữ trong gan, đó là ngăn ngừa, còn tiêu diệt virus thì pha đường với chanh làm tăng pH kiềm, trung hòa acid trong gan, là khỏi bệnh cúm, mà không có dấu hiệu sốt. Tại sao vậy, ví dụ thì giống như hai nhà hàng xóm cạnh nhau, có con trai to khỏe hăm dọa muốn đánh mình, mình cũng phải khỏe lên tuy không phải để đánh nó mà mình khỏe để hăm dọa nó, nếu anh dánh tôi, tôi sẽ đánh mẹ anh, tự nhiên khộng ai dám đánh ai, đó là dùng phương pháp ngăn ngừa chống bệnh bằng phương pháp tương khắc ngũ hành, tức là không đánh giết nhau chết.

3-Đường ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch như thế nào?
Khi chúng ta tiêu thụ thực phẩm có nhiều đường đơn, lượng đường và triglyceride trong máu của chúng ta sẽ tăng đột biến sau bữa ăn (sau bữa ăn). Điều này còn được gọi là "rối loạn chuyển hóa sau bữa ăn" và nó gây ra nhiều thay đổi tiêu cực trong cơ thể. Chỉ cần một bữa ăn nhiều đường mà thiếu protein và chất xơ có thể gây ra các tác dụng tạm thời như:

a-Ức chế bạch cầu trung tính
Bạch cầu trung tính là một phần của hệ thống miễn dịch bẩm sinh (phản ứng đầu tiên). Chúng tuần tra để tìm kiếm những kẻ xâm lược lạ và sau đó bẫy và tiêu diệt các tác nhân gây bệnh khi phát hiện ra. Lượng đường trong máu cao ngăn không cho bạch cầu trung tính đến được vị trí nhiễm trùng do vi khuẩn (ức chế sự di chuyển), làm giảm khả năng bẫy các tác nhân gây bệnh (thực bào) và hơn nữa còn ức chế khả năng tiêu diệt vi khuẩn của chúng, trường hợp này chúng ta đo đường co mà nhịp tim thấp là máu đặc, máu không thông thì bạch cầu trong máu củng không di chuyển được.

b-Tăng viêm và các dấu hiệu viêm như protein phản ứng
Viêm kéo dài (chẳng hạn như khi tiếp xúc nhiều lần với chế độ ăn nhiều đường, thiếu protein) có thể gây ra sự phá vỡ khả năng dung nạp miễn dịch, có thể dẫn đến những thay đổi lớn ở tất cả các mô và cơ quan, cũng như sinh lý tế bào bình thường, có thể làm tăng nguy cơ mắc nhiều bệnh không lây nhiễm ở cả người trẻ và người lớn tuổi. Nó cũng có thể làm suy yếu chức năng miễn dịch bình thường dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm trùng và khối u cũng như phản ứng kém với vắc-xin.

c-Căng thẳng oxy hóa tức thời (sản xuất gốc tự do)
Căng thẳng oxy hóa kích hoạt tình trạng viêm cấp tính, ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống miễn dịch. Ngoài ra, căng thẳng oxy hóa này cũng làm tăng quá trình oxy hóa cholesterol xấu LDL, co thắt mạch máu và hình thành cục máu đông, tất cả đều góp phần gây ra bệnh tim mạch.
Đây cũng là cách giải thích do đường cao mà cơ thể bị mất đi, làm mất thân nhiệt người lạnh máu đông, thức ăn biến thành chất đặc làm máu không lưu thông được trong ống máu, nên khi thử máu đặc thì gọi là mỡ máu, máu đông, nguyên nhân do thiếu nạp đường vào, mà đường cao do cơ thể mất đường

d-Rối loạn chức năng nội mô (mạch máu)
Lượng đường trong máu cao do thiếu protein làm giảm sự giãn nở của mạch máu (giảm lưu lượng máu) đồng thời làm tăng tình trạng rò rỉ của mạch máu và tốc độ đông máu do phản ứng viêm. Phản ứng này tương tự như cách nhiễm trùng do vi-rút gây ra tình trạng viêm mạch máu dẫn đến rối loạn chức năng nội mô, đông máu và bệnh tim mạch. “Tăng tính thấm” của mạch máu trong thời gian dài có liên quan đến tình trạng lão hóa và các bệnh như Parkinson và Alzheimer.

e-Glycosyl hóa protein và thay đổi cấu trúc bậc ba của bổ thể
Mặc dù điều này nghe có vẻ phức tạp, nhưng điều quan trọng cần hiểu là những thay đổi này khiến cơ thể khó nhận biết các tác nhân gây bệnh lạ và loại bỏ chúng. Những thay đổi trong quá trình glycosyl hóa có thể làm tăng phản ứng viêm, cho phép vi-rút trốn tránh miễn dịch (khả năng thoát khỏi) và thúc đẩy di căn tế bào ung thư. Sự phát triển của bệnh tự miễn như bệnh lupus và bệnh ruột kích thích liên quan đến quá trình glycosyl hóa một hoặc nhiều glycoprotein.

4-Cần bao nhiêu đường?
Để cung cấp một chút bối cảnh, cho thấy tác động tức thời của việc tiêu thụ đồ uống có chứa 75g glucose. Lượng đường này tương đương với một cốc rưỡi gạo trắng (68g). Bạn sẽ nhận thấy rằng trong vòng vài giờ, lượng glucose và triglyceride tăng đáng kể dẫn đến stress oxy hóa tức thời (nitrotyrosine), viêm (protein phản ứng C [CRP]) và rối loạn chức năng nội mô thông qua việc giảm lưu lượng máu thông qua việc giảm đường kính mạch máu (FMD).
Một nghiên cứu khác xem xét tác động tức thời của việc tiêu thụ đường đã phát hiện ra rằng những người tiêu thụ 40 gam đường bổ sung chỉ từ một lon nước ngọt 375ml đã bị tăng các dấu hiệu viêm, kháng insulin và cholesterol LDL.

Ngoài những điều trên, các bữa ăn có nhiều đường bổ sung, chứ không phải trong thực phẩm ăn vào được chuyển hóa thành glucose, có thể làm thay đổi chức năng hàng rào ruột của chúng ta và gây mất cân bằng vi khuẩn đường ruột (còn được gọi là loạn khuẩn). Điều này có thể dẫn đến tình trạng được gọi là "ruột rò rỉ" hoặc tính thấm của ruột, gây viêm và làm tăng gánh nặng cho hệ thống miễn dịch. Ngoài ra, vi khuẩn đường ruột bị thay đổi đã được cho là góp phần gây ra nhiều rối loạn do miễn dịch như bệnh ruột kích thích . Hơn nữa, như đã đề cập ở trên, chế độ ăn nhiều đường có liên quan đến sự phát triển của tất cả các loại bệnh như bệnh tim mạch, tiểu đường loại hai, béo phì, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, bệnh gút và các tình trạng tự miễn dịch như viêm khớp dạng thấp, trường hợp này chỉ đúng với những người đang dùng thuốc chữa bệnh tỉểu đường mới có hậu quả này.

II-Chúng ta nên ăn bao nhiêu đường
Và làm thế nào để giảm tác động tiêu cực của đường đối với hệ thống miễn dịch và sức khỏe tổng thể của chúng ta?

1-Quỹ Tim mạch và Đột quỵ khuyến cáo bạn không nên tiêu thụ quá 10% tổng lượng calo mỗi ngày từ đường bổ sung – lý tưởng nhất là dưới 5%. Điều này có nghĩa là đối với người có chế độ ăn 2000 calo/ngày, bạn nên tiêu thụ ít hơn 48g=10 thìa cà phê đường cát vàng (10%) đường. Lượng đường này nhiều hơn một lon nước ngọt một chút. Sau đây là một số điều quan trọng bạn có thể cân nhắc thực hiện để giảm tác động của thực phẩm nhiều đường lên hệ miễn dịch và sức khỏe tổng thể của bạn:

2-Chất xơ và carbohydrate có chỉ số đường huyết thấp:

a- Khi ăn carbohydrate, hãy cố gắng chọn thực phẩm có nhiều chất xơ, chỉ số đường huyết thấp (chỉ số đường huyết <55) như ngũ cốc nguyên hạt, đậu và các loại đậu, rau và quả mọng. Carbohydrate ở dạng này khó tiêu hóa hơn nhiều, do đó làm chậm tốc độ đường đi vào máu.

b-Protein và chất béo
Đảm bảo bạn tiêu thụ một nguồn protein và/hoặc chất béo lành mạnh trong mỗi bữa ăn hoặc bữa ăn nhẹ. Việc bổ sung protein và chất béo cũng giúp làm chậm tốc độ đường được giải phóng vào máu, ngăn ngừa lượng đường trong máu tăng đột biến. Một ví dụ có thể là ăn bơ hạnh nhân với chuối.

c- Thêm protein whey
Thêm protein whey vào cùng một loại đồ uống glucose làm giảm lượng đường trong máu sau khi uống. Chúng ta có một ví dụ về cách thêm 90g hạnh nhân vào một bữa ăn có chỉ số đường huyết cao làm giảm diện tích dưới đường cong glucose xuống 58%.

d-Giấm:
Nghiên cứu cho thấy thêm 1-2 thìa giấm vào bữa ăn có thể làm giảm lượng đường sau ăn từ 25%-35% cũng như tăng cảm giác no sau bữa ăn lên gấp đôi, chỉ áp dụng cho những ai ăn nhiều béo phì không tập mới cần giấm, còn những ai ăn lượng thức ăn chưa đủ lương calo không dùng giấm được sẽ bị giảm cân, và hại gan, khác với nước chấm có đủ 5 vị mặn ngọt chua cay đắng thì trung hòa.

e-Tránh thực phẩm/đồ uống có chỉ số đường huyết thấp và chế biến nhiều
Tránh thực phẩm và đồ uống chế biến nhiều thường chứa nhiều đường đơn, xi-rô ngô có hàm lượng fructose cao và bột mì trắng.

3-Cách chọn thức ăn :
Ngoài ra, các chất dinh dưỡng chính bao gồm nhiều vi chất dinh dưỡng (vitamin và khoáng chất) đã được chứng minh là có tác dụng hỗ trợ chức năng miễn dịch hoặc điều chỉnh tình trạng viêm hoặc cả hai). Bao gồm:
Vitamin tan trong chất béo: A, D, E, K, carotenoid;
Vitamin tan trong nước: B6, folate, B12, C;
Khoáng chất: kẽm, sắt, selen, magiê và đồng;
Axit béo: axit béo omega-3 (ví dụ: EPA, DHA);
Polyphenol thực vật.
Ăn nhiều loại ngũ cốc nguyên hạt, trái cây, rau, nguồn protein và chất béo lành mạnh, chẳng hạn như trong Chế độ ăn Địa Trung Hải, có thể giúp đảm bảo bạn nhận đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng thiết yếu để có chức năng miễn dịch tối ưu. "Chế độ ăn phương Tây", thường có mật độ năng lượng, chất béo, đường và thịt đỏ cao, nhưng lại ít trái cây, rau và chất xơ trong chế độ ăn uống, có liên quan đến khả năng miễn dịch yếu hơn, đặc biệt là so với chế độ ăn theo kiểu Địa Trung Hải .

4-Đi bộ/Tập thể dục
a-Đi bộ trong 10-30 phút sau mỗi bữa ăn. Đi bộ ngắn sau mỗi bữa ăn được phát hiện có hiệu quả hơn trong việc kiểm soát lượng đường trong máu so với chế độ tập thể dục một lần mỗi ngày hoặc chỉ sử dụng metformin .
Không tập thể dục khi đường huyết và calo thấp sẽ bị phản nghịch làm tăng đường huyết cao làm cơ thể vừa mất đường vừa mất calo và sụt cân tế bào sẽ đói trở thành tế bào ung thư là hình thức tế bào ăn tế bào..

III-Một nghiên cứu khác về Đường và Hệ thống miễn dịch

Hệ thống miễn dịch có nhu cầu năng lượng cao và glucose là nguồn nhiên liệu ưa thích của hệ thống .Tinh bột và đường là nguồn glucose chính trong chế độ ăn uống. Ở những người khỏe mạnh, lượng đường trong máu được kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều yếu tố. Tuy nhiên, lượng đường trong máu thấp hoặc cao đều có thể gây hại cho hệ thống miễn dịch. Mặc dù phương tiện truyền thông thường chú ý đến mối liên hệ giữa việc tiêu thụ đường và suy giảm chức năng miễn dịch, nhưng bằng chứng hiện có vẫn chưa chắc chắn.

Một số nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ, nhưng không rõ đây có phải là mối quan hệ nhân quả hay không, giữa chế độ ăn uống nhiều đồ uống có đường và các dấu hiệu viêm .
Một đánh giá có hệ thống và phân tích tổng hợp, đại diện cho mức bằng chứng khoa học cao nhất, đã xem xét 13 thử nghiệm can thiệp tập trung vào người lớn mắc và không mắc bệnh tiểu đường loại 2 hoặc thừa cân và béo phì để xác định tác động của đường (glucose, fructose và sucrose) từ thực phẩm hoặc đồ uống lên các dấu hiệu viêm. Các phát hiện cho thấy không có sự khác biệt về tác động giữa các loại đường khác nhau. Đáng chú ý là nhiều nghiên cứu đã sử dụng lượng đường cao (ví dụ: 100 g đường bổ sung), không phản ánh chế độ ăn uống bình thường.
Cần có thêm nhiều nghiên cứu để hiểu rõ hơn về vai trò của đường như một thành phần của chế độ ăn uống tổng thể đối với chức năng miễn dịch.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7022
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Re: TỰ HỌC YHBS kHÍ CÔNG Y ĐẠO TỪ CƠ BẢN ĐẾN NÂNG CAO

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 6 Tháng 10 17, 2025 2:28 pm

PHẦN 21.
NGHIÊN CỨU NGUYÊN NHÂN UNG THƯ VÀ CÁCH CHỮA.


A-NHỮNG GIẢI THÍCH MỚI CỦA KHOA HỌC VỀ NGUYÊN NHÂN UNG THƯ

1-Ảnh hưởng của nhiễm toan toàn thân và tại chỗ kháng insulin
Hầu hết các tình trạng bệnh lý gây ra nhiễm toan tại chỗ hoặc toàn thân bằng cách vượt qua hoạt động đệm của dịch cơ thể đều trùng lặp với các bệnh lý đặc trưng bởi rối loạn chuyển hóa glucose, bao gồm đái tháo đường, viêm và ung thư. Quan sát đơn giản này cho thấy sự tồn tại của mối quan hệ chặt chẽ giữa nhiễm toan và chuyển hóa insulin hoặc tín hiệu thụ thể insulin. Trong bài tổng quan này, chúng tôi tóm tắt kiến thức hiện tại về hoạt động của insulin đối với việc gây ra nhiễm toan và ngược lại, về ảnh hưởng của sự thay đổi pH ngoại bào và nội bào lên tình trạng kháng insulin. Insulin ảnh hưởng đến nhiễm toan bằng cách thúc đẩy quá trình đường phân. Mặc dù cơ chế chưa rõ ràng, việc giảm pH lại ức chế độ nhạy hoặc hoạt động của insulin. Ngoài nhiễm toan ceton thường liên quan đến đái tháo đường, còn có các yếu tố quan trọng và phức tạp hơn khác tham gia vào cơ chế phản hồi tinh vi này. Trong số đó, bài tổng quan này đã thảo luận về tác dụng ức chế qua trung gian axit đối với ái lực liên kết insulin với thụ thể của nó, đối với quá trình đường phân, đối với quá trình tái chế các chất vận chuyển glucose và đối với quá trình tiết insulin thông qua hoạt động của yếu tố tăng trưởng chuyển dạng β (TGF-β) bởi các tế bào β tuyến tụy. Cuối cùng, chúng tôi đã xem xét lại dữ liệu hiện có về tương tác giữa tín hiệu insulin và hoạt động của các chất vận chuyển ion/proton và cảm biến pH, cũng như cách nhiễm toan có thể làm tăng tình trạng kháng insulin thông qua con đường gây viêm của Yếu tố hạt nhân kappa B (NF-κB).

2. Mất cân bằng acid-base (âm-dương), xác định bằng thử pH nước bọt.
Những nghiên cứu mới của khoa học về nguyên nhân ung thư là sự cân bằng axit-bazơ và điều hòa pH rất quan trọng đối với cả sinh lý bình thường và chức năng tế bào, và chịu sự điều hòa mạnh mẽ. Việc duy trì pH chính xác là cần thiết, cả ở cấp độ ngoại bào và trong tế bào chất, vì những thay đổi trong không gian ngoại bào sẽ tác động trực tiếp đến pH nội bào, và bộ máy tế bào rất nhạy cảm với những thay đổi về nồng độ H+ nội bào. Để duy trì cân bằng axit-bazơ, pH ngoại bào thường được giữ quanh giá trị trung tính và trong giới hạn hẹp. Ví dụ quan trọng nhất là pH máu động mạch được duy trì trong khoảng 7,36 đến 7,44, hoặc pH máu tĩnh mạch khoảng 7,6. Là cơ chế bảo vệ tức thời chống lại sự thay đổi pH, có một số hệ đệm nội bào và ngoại bào ở các vùng khác nhau của cơ thể. Trong máu, hệ đệm quan trọng nhất là hệ đệm HCO3−/CO2, nhưng hemoglobin hoặc protein huyết tương cũng góp phần đáng kể vào hoạt động đệm với nhiều gốc histidine của chúng. Ngoài ra, các protein khác có gốc histidine ở các vùng khác của cơ thể, hoặc citrate và hydroxyapatite trong xương, có hoạt tính kiềm hóa mạnh. Đáng chú ý, dịch kẽ chứa ít phân tử đệm pH và ở mức này, pH có thể thấp hơn và chịu sự biến đổi phức tạp và năng động hơn. Trong trường hợp này, giá trị pH thay đổi mạnh tùy thuộc vào loại mô cụ thể, hoạt động chuyển hóa của từng tế bào và khoảng cách từ tế bào cụ thể đến mạch máu mao mạch gần nhất.
Các tình trạng bệnh lý khác nhau có thể gây ra sự vượt qua các hoạt động đệm trong dịch cơ thể. Có rất nhiều nguyên nhân tiềm ẩn gây nhiễm toan toàn thân và tại chỗ. Sự nhiễm toan tại chỗ có thể là do các yếu tố tăng trưởng hoặc cytokine kích thích chuyển hóa tế bào, bệnh mạch máu, thiếu máu cục bộ, nhiễm trùng, khối u hoặc viêm. Trong quá trình lành xương gãy, ngay sau chấn thương ban đầu, tụ máu xương được đặc trưng bởi tình trạng thiếu oxy và pH thấp. Hơn nữa, như Marunaka và cộng sự đã chứng minh, ngay cả trong giai đoạn tiền bệnh, pH cũng giảm mạnh trong dịch kẽ xung quanh các mô khác nhau, bao gồm cả não. Ở cấp độ toàn thân, ngoài các bệnh về thận và hô hấp, một nguồn tích tụ H+ quá mức là tập thể dục kỵ khí, viêm dạ dày ruột, tiêu thụ quá nhiều protein hoặc các chất tạo axit khác, thiếu máu, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), lão hóa và mãn kinh, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là bệnh tiểu đường.
Đáng chú ý, hầu hết các tình huống đã đề cập ở trên đều trùng lặp với những tình huống xảy ra do rối loạn chuyển hóa glucose hoặc insulin, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa nhiễm toan và chuyển hóa insulin hoặc tín hiệu thụ thể insulin.
Insulin là tác nhân đồng hóa sinh lý mạnh nhất được biết đến, thúc đẩy quá trình dự trữ và tổng hợp lipid, protein và carbohydrate, đồng thời ức chế sự phân hủy và giải phóng chúng vào hệ tuần hoàn của cơ thể. Insulin đặc biệt hoạt động trong tế bào cơ và gan, và cũng thường kết hợp với sự hấp thu axit béo, đặc biệt là trong tế bào mỡ. Tất cả các tế bào động vật có vú hầu như đều có thụ thể insulin (IR), và do đó đáp ứng với insulin. Các tế bào đích insulin đáng chú ý khác có chức năng chuyển hóa bao gồm đại thực bào, tế bào nội mô và tế bào β tuyến tụy sản xuất insulin.
Trong bài tổng quan này, chúng tôi đã mô tả cách hoạt động của insulin điều chỉnh quá trình điều hòa pH, và ngược lại, cách những thay đổi về pH - cả ở khoang ngoại bào và khoang nội bào - điều chỉnh tín hiệu insulin và quá trình chuyển hóa glucose.

3. Tăng đường phân và nhiễm toan cục bộ do insulin
Một trong những chức năng chính của insulin là tác dụng kích thích đường phân, xảy ra khi nồng độ glucose lưu thông tăng lên. Đổi lại, đường phân gây ra sản xuất axit lactic. Tăng lactat máu là một đặc điểm lâm sàng tái phát ở bệnh nhân tiểu đường và có liên quan trực tiếp đến nhiễm toan thông qua mối quan hệ nhân quả. Trong bối cảnh lâm sàng, nhiễm toan lactic có thể xảy ra do sản xuất quá mức lactat ở mức độ mô hoặc do rối loạn chuyển hóa lactat. Đáng chú ý, tăng lactat máu cũng có thể xảy ra với pH huyết thanh bình thường hoặc với nhiễm kiềm do rối loạn cân bằng axit-bazơ hỗn hợp, trong đó nhiễm kiềm hô hấp hoặc chuyển hóa đi kèm che lấp tác động của nồng độ axit lactic tăng cao.
Chi tiết hơn, liên quan đến việc sản xuất quá mức lactat, điều quan trọng cần lưu ý là người ta thường lầm tưởng rằng nhiễm toan liên quan đến sản xuất axit lactic là do sự phân ly của axit lactic và sự hình thành H+. Dựa trên cùng một khái niệm, gần đây hơn, Corbet và cộng sự đã thảo luận rằng các ion lactat và H+ là các thực thể riêng biệt. Đặc biệt, trong điều kiện thiếu oxy sâu, lactat và H+ được tạo ra độc lập và chỉ có một phần giới hạn của mỗi loại kết hợp để tạo thành axit lactic, vì pKa (~3,9) đối với quá trình phân ly hydro cacboxylic vẫn thấp hơn nhiều so với pH tế bào chất và thậm chí cả pH ngoại bào. Hơn nữa, khi hầu hết pyruvate có nguồn gốc từ glucose bị khử thành lactat, quá trình chuyển đổi hoàn toàn glucose thành hai phân tử lactat và hai ion H+ trong tế bào ung thư thiếu oxy chỉ là lý thuyết vì một số phân tử glucose bị chuyển hướng vào các con đường chuyển hóa khác. Tuy nhiên, gradient lactat qua màng tế bào ảnh hưởng đến dòng H+ chảy ra vì lactat được vận chuyển qua màng tế bào bởi các chất vận chuyển axit monocarboxylic (MCT), chủ yếu là MCT4, thông qua sự vận chuyển đồng thời của H+ qua màng tế bào. Cuối cùng, khi lactat đến không gian ngoại bào, cân bằng axit-bazơ dựa trên lactat bị ảnh hưởng bởi một số biến số tương tác—không chỉ bao gồm cân bằng điện tích và bảo toàn khối lượng, mà còn cả sự cân bằng giữa sự hình thành ion bicacbonat, sự hình thành ion cacbonat, sự phân ly nước và sự phân ly axit yếu.
Do đó, tóm lại, sự tích tụ lactat có thể dẫn đến sự gia tăng axit hóa ngoại bào ngay cả khi nó phụ thuộc mạnh vào các biến số khác nhau
Kích thích insulin gây ra axit hóa ngoại bào. Insulin kích thích sự hấp thu glucose từ các chất vận chuyển glucose (GLUT) và đường phân. Sự tích tụ lactat từ đường phân dẫn đến sự gia tăng dần dần nồng độ lactat và proton. Sau đó, proton được vận chuyển qua màng tế bào thông qua một số chất vận chuyển, bao gồm chất vận chuyển monocarboxylate (MCT), cũng vận chuyển lactat ra ngoại bào
Ngoài ra, một số chất vận chuyển proton khác ngoài MCT có thể được sử dụng để nhanh chóng vận chuyển proton ra ngoài tế bào.
Về sự suy giảm chuyển hóa lactat và vai trò của nó trong nhiễm toan do tăng lactat máu, lactat có thể được hấp thụ và được chuyển hóa bởi các tế bào và mô khác nhau, chẳng hạn như gan, tế bào mầm và tế bào thần kinh, chuyển hóa thành pyruvate thông qua LDH và sau đó đóng vai trò là nguồn năng lượng. Trong trường hợp này, lactat được hấp thụ chủ yếu bởi đồng phân MCT1, do đó gây ra hiệu ứng kiềm hóa cuối cùng. Do đó, sự giảm chuyển hóa lactat có thể gián tiếp gây ra tình trạng axit hóa.
Quay trở lại mối liên hệ giữa đường phân và nhiễm toan, dựa trên những phát hiện của Warburg, bằng chứng trực tiếp về mối tương quan giữa đường phân và nhiễm toan ngoại bào trong ung thư đã được đưa ra bằng cách kết hợp chụp cộng hưởng từ, thông qua việc ghép nối chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) và chụp cộng hưởng từ chuyển bão hòa trao đổi hóa học (acidoCEST MRI). Những nghiên cứu này đã chứng minh mối tương quan nghịch đảo đáng kể giữa pH khối u ngoại bào và sự hấp thu [18F]FDG.
Tóm lại, ít nhất là ở cấp độ tế bào, insulin liên kết với IR và sự kích hoạt đường phân sau đó có thể là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng axit hóa kẽ.

4. Tác động của nhiễm toan lên hoạt động và kháng insulin do nhiễm toan

4.1. Tác động của nhiễm toan lên độ nhạy và giải phóng insulin
PH được biết là làm thay đổi hoạt động của insulin, và tình trạng axit hóa được coi là một cơ chế gây kháng insulin. Bằng cách sử dụng các mô hình in vivo, người ta đã chứng minh rằng điều hòa pH làm thay đổi quá trình tiết insulin cơ bản và do glucose kích thích vì tình trạng tăng đường huyết do tải glucose giảm nhanh hơn ở chuột kiềm so với chuột bình thường. Trước đây, nhiễm toan ceton chuyển hóa được coi là nguyên nhân chính. Điều này là do thực tế là, ở cả bệnh nhân tiểu đường người bị nhiễm toan chuyển hóa và ở các mô hình động vật mắc bệnh tiểu đường, tình trạng kháng insulin và thiếu sự khởi phát quá trình hấp thu glucose và đường phân đi kèm với nồng độ thể ceton tăng trong máu và do các mô hình động vật bị nhiễm toan ceton nặng phát triển tình trạng kháng insulin.
Mối quan hệ nhân quả giữa những thay đổi trong môi trường pH và những thay đổi trong hoạt động của insulin vẫn đang được làm rõ
Ảnh hưởng của nhiễm toan lên độ nhạy và giải phóng insulin. Độ pH ngoại bào thấp có thể ảnh hưởng đến độ nhạy và giải phóng insulin theo nhiều cách khác nhau.
Cuối cùng, ở cấp độ toàn thân, người ta biết rằng tính axit của dịch ngoại bào kích thích giải phóng TGF-β trong các tế bào bình thường, vì trong MSC, trong các tế bào ống lượn gần, hoặc trong nuôi cấy hồi hải mã, so với điều kiện bình thường, nhiễm toan làm tăng gấp bốn lần mức độ biểu hiện của TGF-β hoặc hoạt tính sinh học của TGF-β1 . Đổi lại, việc giải phóng TGF-β toàn thân điều chỉnh sự phát triển của tuyến tụy và cân bằng nội môi của đảo tụy, đồng thời hoạt động như TGF-β ức chế sự nhân lên của các tế bào β . Những dữ liệu này gián tiếp gợi ý rằng việc giải phóng TGF-β toàn thân do axit gây ra có thể làm giảm nồng độ insulin lưu hành, do đó góp phần vào cơ chế ức chế phản hồi của nhiễm toan, cuối cùng dẫn đến kháng insulin.

4.2. Ảnh hưởng của nhiễm toan lên biểu hiện, hoạt hóa và truyền tín hiệu thụ thể insulin
Kháng insulin do axit đã được quan sát thấy ở một số loại tế bào. Một lý do rất đơn giản có thể giải thích cho tác động này là sự giảm liên kết insulin với thụ thể của nó ở nồng độ proton cao. Igarashi và cộng sự đã chứng minh một cách khéo léo rằng ở tế bào mỡ, việc giảm pH ngoại bào có liên quan đến việc giảm tỷ lệ liên kết insulin (lên đến 70%). Trong bộ thí nghiệm này, các tác giả đã chứng minh rằng tác động như vậy chủ yếu là do giảm ái lực liên kết insulin với các vị trí liên kết của nó, mà không ảnh hưởng đến số lượng IR trên mỗi tế bào.
Tỷ lệ liên kết insulin giảm ở pH thấp, so với pH trung tính, cũng đã được chứng minh ở nguyên bào sợi, hồng cầu và nguyên bào cơ. Đặc biệt, ở nguyên bào cơ L6, liên kết insulin với IR bị giảm tới 50% ở pH 6. Do đó, nhiễm toan có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hấp thu glucose do insulin kích thích bằng cách can thiệp vào bước đầu tiên của con đường truyền tín hiệu insulin,. Để khẳng định giả thuyết này, bằng cách sử dụng insulin được đánh dấu phóng xạ, các tác giả này cũng chứng minh rằng sự phosphoryl hóa IR giảm là do giảm ái lực liên kết insulin với thụ thể, có tương quan nghịch với mức độ pH. Đáng chú ý, nhiễm toan ngoại bào cũng có thể can thiệp trực tiếp vào tín hiệu protein kinase hoạt hóa mitogen/kinase điều hòa tín hiệu ngoại bào) và hoạt hóa Akt, bất kể sự kích thích insulin .

4.3. Ảnh hưởng của nhiễm toan lên sự biểu hiện của các chất vận chuyển GLUT
Insulin làm tăng dự trữ hoặc sử dụng năng lượng chủ yếu thông qua việc điều hòa sự hấp thu glucose bằng cách kích thích sự biểu hiện của chất vận chuyển GLUT4 trên màng tế bào. Ở những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, mức độ biểu hiện của GLUT4 trong cơ xương giảm đáng kể, dẫn đến giảm khả năng xử lý glucose.

5. Điều hòa pH nội bào bởi các chất vận chuyển proton/ion và sự tiết insulin
Để tránh kích thích gây tử vong do sự tích tụ proton nội bào quá mức, có thể xuất phát từ việc giảm pH ngoại bào hoặc tăng đường phân, tế bào biểu hiện các chất điều hòa dòng proton khác nhau ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào mô gốc Khi các chất vận chuyển này được kích hoạt, pH nội bào (pHi) tăng lên, mặc dù chỉ là tạm thời. Tuy nhiên, việc tiếp xúc lâu dài với lượng proton dư thừa sẽ tạo ra sự gia tăng pHi một cách nghịch lý, dần dần và kéo dài. Một trong những ví dụ phổ biến nhất về sự gia tăng pHi liên tục kết hợp với nhiễm toan ngoại bào mạn tính là ung thư .
Sự gia tăng pHi được biết đến rộng rãi là một yếu tố quan trọng đối với quá trình tiết insulin. Một trong những mô hình được nghiên cứu nhiều nhất trong bối cảnh này là các tế bào β của tuyến tụy. Tải lượng glucose trong các tế bào này, ở nồng độ trên 3–5 mM, gây ra sự khử cực tế bào và sự gia tăng tạm thời pHi (lên đến 6,4–6,8 giá trị) kích thích trực tiếp quá trình tiết insulin

6. Thụ thể Insulin và Cảm biến Toan Ngoại bào
Sự hấp thu glucose và đường phân do insulin kích thích giảm ở pH ngoại bào thấp, trong khi tiết insulin tăng lên khi pHi tăng. Do đó, có thể suy đoán rằng tồn tại các cơ chế đặc hiệu để cảm biến sự thay đổi pH và gradient giữa không gian ngoại bào và nội bào, giải thích cho sự hoạt hóa con đường insulin và hoạt động chuyển hóa. Một số cơ chế cảm biến proton ngoại bào được biểu hiện trên màng tế bào trong nhiều hệ thống sinh học. Sự tồn tại và tính dư thừa rõ ràng của nhiều hệ thống giám sát pH chứng minh cho khái niệm rằng điều hòa axit-bazơ là rất quan trọng đối với cân bằng nội môi của tế bào và mô. Thật vậy, ngoài việc mang nhiều dòng điện do proton kích thích, các kênh ion cảm biến axit này còn đóng vai trò cơ bản trong truyền tín hiệu tế bào và cho phép tế bào chủ phản ứng với những thay đổi lành tính hoặc có hại của môi trường.. Các bằng chứng mới nổi cho thấy nhiều kênh ion và thụ thể nhạy cảm với axit cũng đóng vai trò trong quá trình điều hòa phản hồi do axit gây ra các phản ứng cân bằng nội môi và có thể được biểu hiện từ các tế bào khác ngoài tế bào thần kinh.
Trong khi các kênh ion hướng ion thường cảm nhận độ pH axit mạnh, các GPCR cảm ứng proton cảm nhận độ pH từ 7,6 đến 6,0 và điều hòa nhiều hoạt động sinh học trong môi trường pH trung tính và hơi axit. Liên quan đến ung thư buồng trứng,
.
7. Con đường viêm do thụ thể insulin gây ra và nhiễm toan
Sự axit hóa mô (pH giảm ít nhất 0,5–1,0 đơn vị pH) thường liên quan đến tình trạng viêm.. Ví dụ, việc hạ thấp pH thúc đẩy sự biểu hiện của chất truyền tin mRNA của IL-6 và IL-8, cũng như của NF-κB1, RelA và RelB ngay sau 3 giờ tiếp xúc với nhiễm toan (pH 6,8), và sau 24 giờ, nó thúc đẩy sự biểu hiện protein nội nhân của các thành viên thuộc họ NF-κB và giải phóng các cytokine gây viêm IL-6 và IL-8, cả trong MSC và tế bào tạo xương ở người. Tương tự, các GPCR có thể cảm nhận kích thích axit có thể trung gian cho các phản ứng viêm và các phản ứng liên quan, chẳng hạn như đối với gen 8 liên quan đến chết tế bào T giúp tăng cường sản xuất IL-6, TNF-α và IL-1β ở tim bị nhồi máu của mô hình chuột
Sự kích hoạt các con đường gây viêm do nhiễm toan, đến lượt nó, có thể làm suy yếu quá trình chuyển hóa glucose và gây ra tình trạng kháng insulin toàn thân. Kháng insulin do lipid gây ra đã được chứng minh có liên quan đến tình trạng viêm trong các nghiên cứu dịch tễ học, và bằng các mô hình khác nhau, một số tác giả đã chứng minh rằng việc kích hoạt NF-κB làm giảm sự hấp thu glucose ròng do insulin kích thích.

8. Kết luận nguyên nhân gây ra các loại ung thư do pH axít trong môi trường máu.
Nhiễm toan điều chỉnh độ nhạy và kháng insulin theo nhiều cách khác nhau và phức tạp. Đáng chú ý, thời điểm tiếp xúc với nhiễm toan là một yếu tố quan trọng trong bối cảnh này, vì các tác động cấp tính và mạn tính của nhiễm toan có thể có tác động hoàn toàn trái ngược nhau. Để kiểm soát các bệnh liên quan đến axit, đối với các bệnh liên quan đến kháng insulin, việc giảm lượng axit trong chế độ ăn uống có thể là một giải pháp thay thế khả thi và là một lộ trình phù hợp để cải thiện cân bằng glucose và phòng ngừa bệnh lâu dài. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chuyển hóa insulin và điều hòa pH là một lĩnh vực nghiên cứu thú vị và hấp dẫn để xác định các phương pháp điều trị mới.

9-Nguyên nhân ung thư tuyến tụy vì tế bào dựa vào môi trường axit để tồn tại
Một nghiên cứu mới được công bố hôm nay trên tạp chí Science đã lần đầu tiên chỉ ra cách độ pH axit trong mô xung quanh tế bào ung thư tuyến tụy kích hoạt những thay đổi trong ty thể của chúng, góp phần làm khối u phát triển nhanh hơn, di căn và kháng thuốc.
Khi khối u rắn phát triển, môi trường của nó có thể ngày càng trở nên axit hơn trong một quá trình được gọi là nhiễm toan. Mặc dù các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối liên hệ giữa nhiễm toan và tính hung hãn của khối u trong ung thư tuyến tụy, nhưng người ta vẫn chưa hiểu chính xác nhiễm toan góp phần vào tiên lượng xấu hơn như thế nào, hay liệu nhiễm toan chỉ là triệu chứng của các quá trình tiềm ẩn khác.
Vì ung thư tuyến tụy là một trong những dạng ung thư nguy hiểm nhất, việc hiểu rõ các yếu tố thúc đẩy sự phát triển và tính hung hãn của khối u là điều cần thiết để xác định các phương pháp điều trị hiệu quả hơn. Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã tìm ra chuỗi sự kiện khiến tế bào ung thư tuyến tụy dựa vào môi trường axit để thay đổi quá trình trao đổi chất và trở nên hung hãn hơn.
“Kết quả của chúng tôi cho thấy nhiễm toan không chỉ đơn thuần là sản phẩm phụ của quá trình chuyển hóa khối u, mà còn là một công tắc quan trọng kiểm soát nguồn cung cấp năng lượng và chiến lược sinh tồn của tế bào ung thư”, Tiến sĩ Johannes Zuber, trưởng nhóm nghiên cứu cấp cao tại Viện Nghiên cứu Bệnh học Phân tử (IMP) ở Vienna và là tác giả chính của nghiên cứu, cho biết.
Zuber và các cộng sự đã bắt đầu nghiên cứu cách các tế bào ung thư tuyến tụy thích nghi với các điều kiện bất lợi của môi trường khối u, bao gồm nồng độ oxy, glucose và các chất dinh dưỡng quan trọng thấp hơn bên cạnh tình trạng nhiễm toan.

“Không chỉ việc thiếu oxy hoặc chất dinh dưỡng làm thay đổi quá trình trao đổi chất trong khối u, mà chủ yếu là do tính axit của môi trường khối u”, Tiến sĩ Wilhelm Palm, Trưởng khoa Truyền tín hiệu và Chuyển hóa tế bào tại Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Đức (DKFZ) ở Heidelberg, cho biết.
Thông thường, ty thể trong tế bào ung thư có kích thước nhỏ và bị phân mảnh. Tuy nhiên, tình trạng nhiễm toan được phát hiện là ức chế con đường truyền tín hiệu ERK, yếu tố thúc đẩy quá trình phân mảnh này. Điều này dẫn đến việc các ty thể hợp nhất với nhau để tạo thành mạng lưới rộng lớn có thể sản xuất năng lượng hiệu quả hơn từ nhiều chất dinh dưỡng khác nhau.
Dựa trên những kết quả này, các nhà nghiên cứu tin rằng các biện pháp can thiệp điều trị nhằm giải quyết tình trạng nhiễm toan hoặc ngăn ngừa sự hợp nhất của ty thể có thể làm mất ổn định quá trình trao đổi chất của tế bào ung thư, từ đó làm chậm sự phát triển của chúng trong điều kiện nhiễm toan. Mặc dù ung thư tuyến tụy đặc biệt dễ bị nhiễm toan do tầm quan trọng của độ pH trong cơ quan này, nơi sản xuất dịch tụy có tính kiềm, nhưng chiến lược này có khả năng được mở rộng sang các khối u rắn khác nơi phát hiện nhiễm toan.

B-CÁCH CHỮA KHỎI UNG THƯ LÀ ĐỐI CHỨNG TRỊ LIỆU

Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chứng minh nguyên nhân ung thư là do tế bào nhiễm toan, gây ra sự hô hấp của tế bào bị hiếm khí, môi trường máu có pH acid, mất cân bằng glucose và insulin gây ra rối loạn chuyển hóa thức ăn biến thành máu mà biến thành mỡ mà không có máu nuôi tế bào. Phản ứng hóa học và những chức năng chuyển hóa có chiều hướng nhiễm toan từ từ đến các mô tế bào, nên xét nghiệm máu chưa thể phát hiện hay xác định là tế bào bị ung thư.

Nhưng Môn Khí Công Y Đạo dựa vào máy đo áp huyết 2 tay, máy đo đường, súng bắn nhiệt kế, giấy quỳ thử pH nước bọt, và cách tính chức năng chuyển hóa thức ăn của bao tử, chức năng chuyển hóa máu của gan, đã biết được từng giai đoạn ung thư do nguyên nhân gì, thiếu yếu tố gì mà gây ra bệnh ung thư, để phòng ngừa theo từng giai đoạn.

Trường hợp 1. Thử pH nước bọt trước ăn và sau ăn 30 phút.
a-pH nước bọt ngày nào cũng 6.5-7.7 thì không bị ung thư
b-pH nước bọt càng ngày càng giảm dưới 6, là đã có dấu hiệu ung thư, pH 5.5 và thấp hơn là bệnh nhân đang bị ung thư.
Cách chữa :
Thay vì uống baking soda làm tăng pH kiềm, thì chọn ăn những thực phẩm có độ kiềm cao pH 9 hay 10 cho pH máu tăng dần để cân bằng pH máu trong tình trạng nhiễm toan.

Trường hợp 2. Nhịp tim thấp, thân nhiệt lạnh
Khi đo áp huyết 2 tay có nhịp tim thấp 2 tay khác nhau.
a-Nhịp tim đo bên tay phải chỉ tình trạng nhiệt của gan là nóng nếu nhịp tim cao như trên 90 là gan bị viêm sưng nóng nguyên nhân thiếu máu, hay nhịp tim gan dưới 60 là tình trạng gan nhiễm mỡ, máu, mỡ và dịch mật trong gan đặc do lạnh.
b-Nhịp tim đo bên tay trái là lượng thức ăn và chức năng bao tử, nếu có nhịp tim thấp dưới 60 là bao tử hàn, hay thức ăn trong bao tử chứa thức ăn có tính hàn lạnh, thì bao tử không có bóp chuyển hóa thức ăn đặc thành lỏng để đẩy thức ăn xuống ruột, thì thức ăn trong bao tử không tiêu tạo thành bã thức ăn hòn cục sẽ lên men gây ra trào ngược, gọi là chuyển hóa nghịch.
Cách thử bằng máy đo đường huyết, sau khi ăn đo đường huyết ví dụ như 80mg/dl, uống 5 thìa cà phê đường cát vàng, theo lý thuyết khi uống đường thì thử đường phải tăng lên, nhưng sau khi uống, thử đường vẫn là 80mg/dl, nếu có uống thêm đường nữa thì thử lại đường huyết vẫn là 80mg/dl, thì chúng ta phải nghĩ ngay hạ vị của bao tử là cửa nối liền đáy bao tử thông xuống ruột non bị tắc giống như cái phễu bị tắc, đường không xuống ruột vào máu để làm tăng đường huyết, thì tương lai sẽ bị ung thư bao tử.
Ngược lại nhịp tim bên bao tử cao như 120, thay vì nhịp tim cao phải bị sốt, nhưng đo nhiệt tay chân lạnh, đo đường huyết thấp, và uống thêm đường đo đường huyết cũng không tăng, thì bao tử cũng bị nghẹt thức ăn giống như cái phễu bị nghẹt, nhưng bệnh nặng hơn, theo đông y nhịp tim cao trong người nóng, chân tay lạnh là do thiếu máu, thì chúng ta phải nhớ đến thí dụ : có 10 người làm 1 công việc thong thả xong trong 1 giờ, thì nhịp tim của họ hòa hoãn, nhưng nếu lấy bớt trong nhóm của họ ra 5 người, 5 người còn lại bắt buộc cũng phải làm xong trong 1 giờ, thì họ phải làm cho nhanh hơn thì mệt hơn, tim họ đập nhanh hơn, tại sao, vì nhóm họ bị thiếu người, thì trong cơ thể chúng ta cũng vậy, thông thường lượng máu trong người chúng ta có khoảng 6 lít, nhưng vì chúng ta không ăn thức ăn bổ máu, nên lượng máu trong cơ thề thiếu dần chỉ còn 3-4 lít, bị sụt cân, không đủ 6 lít máu tuần hoàn trong hệ thống ống mạch dài hơn 94 ngàn cây số, nên tim phải co bóp cho máu tuần hoàn nhanh hơn mà cũng vẩn không chạy ra đến đầu ngón tay chân.
Cách chữa :
Phải xúc bao tử tống bã thức ăn cũ trong bao tử bằng một trong 2 chất.
a-Nếu áp huyết cao thì dùng Muối đắng Epsom loại uống, cũng có độ pH 7, chứ không phải loại tắm, cho xổ thức ăn trong bao tử và ruột. uống 1 thìa cà phê đầy muối đắng pha với 1 ly 250cc nước ấm nóng cho dễ uống, nó không có mùi, chỉ hơi đắng mà không mặn, uống xong nằm ngang trên đầu giường lăn xuống cuối giường, rối từ cuối giường lăn trở lại đầu giường kể là 1 lần, lăn 10 lần, khi tập bài Lăn Người thì miệng thổi hơi ra bụng mểm để ép đè thức ăn trong bao tử cho thức ăn vỡ nhỏ dần, thức ăn sẽ ói ra khỏi họng hay buồn đi vệ sinh, sau khi ói hay đi vệ sinh xong, đo lại áp huyết và đường có thay đổ áp huyết cao thành thấp, đường huyết thấp thành cao, như vậy chứng tỏ phễu hết bị nghẹt thì thức ăn xuống ruột thì đường uống vào bao tử cũng xuống ruột làm tăng đường huyết là đã thông được hết nghẹt bao tử, sau khi uống muối đắng và tập Lăn Người, nên áp dụng vào sau bữa cơm trưa 1 tiếng, mỗi trưa áp dụng 1 lần cho áp huyết xuống tiêu chuẩn tuổi và chọn loại thức ăn có chỉ số đường huyết GI cao trong thức ăn thiên nhiên để khỏi phải uống đường cát vàng, chỉ cho calo rỗng, và dù có uống đường cao bao nhiêu mà thừa đường không có protein thì sau 1 giờ tuyến tụy xuất insulin vào máu để cân bằng lượng đường trong máu, còn đường dư thừa bị cất vào gan làm tăng mỡ cho gan gây ra bệnh gan nhiễm mỡ, và pH acid là gan nhiễm toan sẽ bị ung thư gan.
b-Nếu áp huyết thấp mà bao tử nghẹt thì uống 1 thìà bột baking soda, cũng có độ pH 7, pha với 5 thìa cà phê đường cát vàng sau khi ăn trưa 1 tiếng, rồi tập bài Lăn Người thổi hơi ra cho bụng xẹp để đè ép thức ăn trong bao tử phân tán nhỏ dần cho dễ trôi xuống ruột để đi vệ sinh, thử lại xem bao tử đã thông chưa thì đo đường huyết sau khi đi vệ sinh thí dụ đường huyết còn 100mg/dl, uống thêm 5 thìa cà phê đường, 5 phút sau đo lại đo đường huyết tăng lên 50mg/dl là 150mg/dl, là đã thông 100%, còn chỉ lên được 110mg/dl thì thức ăn chưa thông hết nên mới còn nước đường trong bao tử bị nghẹt giống như phễu bị nghẹt, nước đường không chảy xuống phễu được, có hiện tượng nôn ói ra nước đường

Trường hợp 3.Thiếu oxy làm mất máu.
Áp huyết tâm thu chỉ khí lực trong cơ thể do thức ăn và hít thở của phổi tạo ra. Khí lực tâm thu cũng phải tùy theo tuổi, trẻ em khí lực yếu thì số tâm thu thấp như 100mmHg, thiếu niên 110mmHg, thanh niên 120mmHg, trung niên 130mmHg, lão niên 140mmHg, cao hơn tiêu chuẩn tuổi là cao áp huyết tâm thu, thấp hơn tiêu chuẩn tuổi là bệnh áp huyết thấp thiếu khí lực oxy.
Những giai đoạn ung thư của người lớn tuổi có áp huyết tâm thu THẬT như sau :Ung thư Giai đoạn 1 : tâm thu 90mmHg
Giai đoạn 2 : tâm thu 85mmHg
Giai đạon 3 : tâm thu 80mmHg
Giai đoạn 4 : tâm thu 75mmHg
Giai đoạn chết : tâm thu 70mmHg
Theo tây y, công thức máu là Fe2O3, gọi là oxyde sắt tam, là công thức máu đỏ cần nhiều Oxy là O3, có nhiều oxy thì tâm thu cao, thiếu oxy thì máu đỏ biến thành máu đen Fe2O2 gọi là oxyde sắt nhị, tâm thu thấp nữa là thiếu oxy thì công thức máu bị phá vỡ, thì bệnh nhân này thiếu máu mà lại thừa sắt Fe2 cũng trở thành ung thư máu.
Sao gọi là áp huyết THẬT, vì nhịp tim của bệnh nhân cho biết nguyên nhân ung thư THẬT hay GIẢ.
Thí dụ áp huyết tay trái là 85/60mmHg nhịp tim 60, đường huyết 80mg/dl sau khi ăn. Thì nguyên nhân do bệnh nhân ăn sai, thức ăn không cung cấp đủ khí, chỉ có là 85mmHg thay vì phải 120mmHg trở lên, lượng thức ăn 60mmHg là ăn lượng thức ăn ít, thay vì phải 75-80mmHg, đường huyết thiếu do kiêng đường không đủ đường huyết 200mg/dl để đủ đường chuyển hóa thức ăn biến thành máu để làm tăng khí oxy, tăng thân nhiệt và làm tăng nhịp tim.
Theo đông y, mỗi loại thực phẩm đều có tính, khí, vị riêng, như tính hàn hay nhiệt hay ôn ấm, khí là khí thăng làm tăng khí hay giáng là làm hạ khí, vị là mặn, ngọt chu, cay đắng để chữa tốt cho kinh tạng nào trong cơ thể.
Cho nên các nhà khoa học mới nói trong con người chúng ta lúc nào cũng có tế bào ung thư, nhưng không biết nó trú ẩn ở đâu, thật ra tùy theo bữa ăn, tế bào đói không đủ 4 chất nuôi tế bào là glucose, protein, lipid, oxy thì tế bào trở thành ung thư chúng ta đo được, thấy được khi cho kết quả là áp huyết thấp có dấu hiệu ung thư, nhưng bữa ăn khác lại cho kết quả tốt, không có dấu hiệu ung thư.

Trường hợp 4.Thiếu máu, áp huyết giả.
Như trên đã nói nhịp tim cao, nhiệt độ chân tay lạnh, mà đường không cao, cũng có thể bị ung thư do thiếu máu, nhưng đo áp huyết cao GIẢ, phải đổi sang áp huyết THẬT mới xác định có phải là ung thư hay không.
Thí dụ áp huyết sau khi ăn đo được là 120/80mmHg nhịp tim 120, nhiệt độ tay chân lạnh, trong người nóng mà ngoài da mặc áo lạnh, đường huyết 100mg/dl, pH 6.
Cách lý luận :
Vì thiếu máu nhịp tim mới cao không phải sốt, chân tay lạnh, nên nhịp tim phải đập nhanh hơn tiêu chuẩn bình thường 80, là đã đập nhanh hơn 40 nhịp làm tâm thu phải tăng lực bơm máu lên 40 số, nên đổi lại nhịp tim thật bình thường 80, thì tâm thu 120 phải trừ đi 40, thì tâm thu thật là 80mmHg là ung thư giai đoạn 3, nhưng chỉ do bữa ăn sai tại thời điểm này, muốn tránh ung thư phải kiêng ăn những thức ăn có pH acid, phải chọn thức ăn có pH 10, chọn những thức ăn làm ấm nóng người, có đường huyết GI cao làm tăng đường tự nhiên bằng thức ăn mà không phải uống đường cát vàng cho calo rỗng, thì sau 1 giờ sẽ bị insulin dẹp vào kho gan thành gan nhiễm mỡ, và thức ăn không đủ pH nước bọt trung tính mà vẫn là pH acid thì gan nhiễm toan, và thừa acid trong bao tử gây trào ngược, loét, và ung thư bao tử.
Lượng thức ăn 80mmHg cũng là giả, đổi sang tâm trương thật thì lấy 80mmHg trừ ½ của nhịp tim nhanh hơn 40 còn 20 thì tâm trương thật 80mmHg trừ 20, tâm trương thật chỉ còn 60mmHg là lượng thức ăn ít không đủ nuôi tế bào.

Trường hợp 5.Thức ăn không chuyển hóa, điều này tây không biết vì không đo áp huyết trước khi ăn và sau khi ăn để so sánh.
Ý niệm về chuyển hóa ví như bánh xe có chuyển động dời chỗ, chúng ta ví như ngồi trên chiếc xe đạp, bàn đạp bên chân trái chúng ta ghi là bao tử, bàn đạp bên chân phải chúng ta ghi là gan, như vậy gan và bao tử, khi chúng ta đạp xe lúc nào cũng một bên cao một bên thấp đối nghịch nhau, Có nghĩa bên gan cao thì bên bao tử thấp
Khi đạp 1 vòng bánh xe lăn thay đổi chỗ được 3 thước, khi chân trái thấp ví như trước khi ăn là đói thì áp huyết tâm thu bên tay trái thấp, bao tử nhẹ, ví nhu đo tâm thu được 120mmHg, khi chúng ta biết đói thì gan phải làm việc trước tiết dịch mật tiêu hóa sang bao tử khiến chúng ta xót bụng muốn ăn, thì áp huyết tâm thu bên gan phải cao hơn bên bao tử 10 số như 130mmHg, khi chúng ta ăn thức ăn đầy bao tử thì thể tích bao tử và trọng lượng bao tử tăng, thì áp huyết tâm thu tăng lên 10 số thì áp huyết tâm thu tay trái tăng lên như 130mmHg, thì tâm thu bên gan xuống 10 số là 120mmHg.
Như vậy chuyển hóa của bao tử khi đói 120mmHg, khi no 130mmHg là chức năng chuyển hóa của bao tử thuận 100%. Chức năng chuyển hóa của gan khi đói 130mmHg khi no 120mmHg cũng chuyển hóa thuận 100%.
.
a-Một thí dụ về chuyển hóa của bao tử.
Ví bao tử giống như một máy xay gạo đã ngâm nước, ví như thức ăn đã nấu chín, bỏ 5 kg vào máy, có công suất của máy là muốn xay 1 kí gạo thành 1 kí bột, cứ mỗi kí máy cần năng lượng cho máy chạy là 1 lít xăng, ví như lượng đường trong máu 200mg/dl, nếu chúng ta có đủ 5 lít xăng hay đường huyết đủ 200mg/dl, thì máy xay ra hết gạo thành 5 kí bột, nhưng nếu đường huyết thiếu ví như thiếu xăng cho máy, chỉ có 3 lít xăng thì chỉ cho ra 3kg bột, thì gọi là máy chuyển hóa được 60%, gạo đã ngâm nước còn bị kẹt lại trong máy sẽ nở ra lên men chua, có nghĩa bao tử thừa acid, và nếu đến bữa ăn sau, bao tử chỉ chứa được 40% lượng thức ăn mới đã đầy, và đường vẫn thiếu, như vẫn thiếu xăng chạy máy để chuyển hóa, thì máy chỉ xay đẩy tiếp thức ăn cũ trong máy ra là bột đã chua thiu thối gây độc hại trong máu, nên bị đào thải thành phân hôi thối gây ra bệnh.
Cách chữa :
Phải xúc bao tử giống như xúc máy, không ăn thêm mà cần nhiều xăng cho máy chạy tống hết gạo cũ trong máy, tùy theo áp huyết cao thì xổ bằng muối đắng Epsom, áp huyết thấp thì xổ bằng baking soda như trên

b-Một thí dụ chuyển hóa của chức năng gan.
Chức năng gan chứa lượng máu mỡ và đường dự trữ glycogen nhiều thì gan to, thì tâm thu trước khi ăn thì cao như 130mmHg, gan sẽ chuyển dịch mật tiêu hóa, năng lượng đường sang cho bao tử chuyển hóa thức ăn, thì thể tích gan xẹp, tâm thu thấp xuống còn 120mmHg, đó là chuyển hóa thuận 100%.
Nhưng nếu trước khi ăn tâm thu gan 130mg/dl, sau ăn tâm thu xuống 1 hay 2 hay 3 số như 129mmHg, hay 128mmHg, hay 127mmHg thì chỉ chuyển hóa dịch tiêu hóa và đường sang cho bao tử, được 10% hay 20% hay 30%
Nhưng khác nhau ở chỗ bên bao tử trong thức ăn cũng có đường, nên thức ăn vẫn chuyển hóa hết thức ăn 100%.thì bao tử tốt không có vấn đề về bệnh bao tử, nhưng gan có vấn đề về bệnh của gan, vì gan chỉ thu nhận chất bổ của thức ăn có 30%, 70% còn lại gan không tiếp nhận thì biến thành mỡ bụng

Trường hợp 6.Bệnh của gan.
a-Chức năng gan không chuyển hóa
Gọi là chai gan, có 2 loại chai gan sưng gan, và chai gan teo gan.
-Lúc nào áp huyết cũng cao giống nhau không thay đổi như 145mmHg trước ăn và sau ăn, gọi là chai gan sưng gan, mất cả chức năng năng hấp thụ thức ăn thành máu.
-Lúc nào cũng thấp giống nhau như 100mmHg trước ăn sau ăn, thể tích gan nhỏ thì chứa máu ít, không cung cấp đủ máu cho tim tuần hoàn gây ra suy tim, thiếu máu cơ tim cục bộ, khiến cơ tim co bóp nhanh để kéo máu về tim nhưng không đủ nên hỏng van tim là hẹp van tim hay hở van tim, mất nhịp tim.

Trường hợp 7. Bệnh của túi mật.
Mật là một chất lỏng quan trọng do gan sản xuất và được lưu trữ trong túi mật, giúp nó đảm nhiệm các chức năng trong quá trình tiêu hóa. thành phần của mật:
• Nước: Chiếm khoảng 85-90% khối lượng mật, đóng vai trò là dung môi cho các thành phần khác.
• Muối mật: Các muối natri và kali của axit mật như acid cholic và acid chenodeoxycholic. Đây là thành phần chính giúp nhũ tương hóa chất béo, phá vỡ chúng thành các giọt nhỏ để dễ dàng tiêu hóa và hấp thu.
• Cholesterol: Một thành phần quan trọng, đóng vai trò như tiền chất để tổng hợp muối mật.
• Sắc tố mật (bilirubin): Là sản phẩm phân hủy từ hồng cầu già, giúp tạo màu đặc trưng của mật.
• Lecithin và các phospholipid khác: Đóng vai trò hỗ trợ nhũ tương hóa chất béo, tạo môi trường ổn định cho lipid trong dịch tiêu hóa.
• Các chất điện giải: Như natri, kali, canxi, giúp duy trì tính ổn định của môi trường hóa học trong mật.
Dịch mật đóng vai trò chính trong việc phân giải chất béo lipid và hỗ trợ hấp thu các chất bổ máu thành máu vàvitamin tan trong dầu như A, D, E và K.làm tăng lượng máu trong gan chúng ta thấy được qua số đo áp huyết tâm trương trước khi ăn và sau khi ăn khác nhau. Thí dụ trước khi ăn tâm trương 70mmHg, sau khi ăn tâm trương tăng lên 72mmHg, số máu này cung cấp máu cho tim tuần hoàn, rồi bị đào thải qua thận lọc máu loại bỏ tế bào hồng cầu già chết chỉ thu lại sắc tố mật nên khi đói tâm trương lại xuống thấp, sau khi ăn thức ăn bổ máu số đo tâm trương lại cao. Như vập chức năng gan vừa giúp tiêu hóa, nhưng cũng vừa có chức năng hấp thụ chất bổ máu.
Trường hợp tắc túi mật, chúng ta cũng thấy được là đo áp huyết hai tay có 2 nhịp tim chênh lệch nhau, như nhịp tim bên bao tử bình thường từ 70-80, nhưng nhịp tim bên gan lúc nào cũng 55-60 theo đông y là nhịp tim chỉ gan bị hàn lạnh thì túi mật hay mỡ hay máu trong gan bị đặc lại, túi mật đóng đông thành cục, tây y hiểu lầm là ung thư túi mật. Thí dụ như nữ bệnh nhân này đi khám tây y kết luận ung thư túi mật, khi đo áp huyết 2 tay , đường huyết, nhiệt độ, pH có kết quả như sau :Ngày 16 tháng 10 năm 2025, khi bụng đói, AH tay trái 101/71mmHg 51, tay phải 100/71mmHg 57, nhiệt độ trán 36.8 độ C, nhiệt độ đầu ngón tay út 36,8 độ C,đường huyết 100mg/dl, pH 7.
Nguyên nhân thiếu đường chỉ có 100mg/dl thì trong người lạnh, nhịp tim thấp có và 57 thì các chất lỏng trong gan bị đông đặc, nhưng pH 7 là kiềm tế bào ung thư sẽ bị chết trong môi trường kiềm, như vậy túi mật đặc thành cục không phải là ung thư, nhưng bệnh nhân này có nhịp tim bên bao tử thấp 51 cũng là bao tử hàn, thiếu đường bao tử không co bóp, hậu quả thức ăn cũng không thể chuyển hóa, và chức năng bên gan cũng không giúp cho tiêu hóa tốt vì không tiết dịch tiêu hóa sang bao tử, và cũng không hấp thụ được chất bổ thành máu, tiên lượng xấu hiện tại gan không chuyển hóa cung cấp máu cho tim tuần hoàn tim sẽ thiếu máu cơ tim cục bộ, suy tim, khó thở, đau tức tim ngực.
Cách chữa :
Uống 10 thìa cà phê đường cát vàng, chườm nóng bao tử và gan 30 phút, rồi tập bài Lăn Người 10 phút, rồi đo lại áp huyết và đường xem có tăng nhịp tim và tăng đường huyết không, có tăng là có dấu hiệu chuyển hóa, rồi chọn những thức ăn vừa bổ máu vừa có chỉ số đường huyết GI cao trong thực phẩm, để sau khi ăn có đường huyết cao mà không cần uống đường, rồi tối trước khi đi ngủ xổ độc máu mỡ trong gan bằng Phan Tả Diệp bằng lá mua ở tiệm thuốc bắc, dùng 2 thìa canh lá Phan tả diệp pha vào 1 ly nước nóng như hãm trà, hay mua túi trà Phan tả Diệp trong chợ Á Đông tên là Slim-Tea gọi là trà tiêu mỡ, hay mua ở tiêm thuốc tây Phan tả Diệp được nén thành viên mang tên thuốc là Senna Laxative uống 5 viên để xổ độc, cỏn theo toa ghi 2-3 viên chỉ có công dụng nhuận tràng, khi ngủ nằm nghiêng bên phải cho gan làm việc, đến sáng sau 10 tiếng sẽ đi vệ sinh 2-3 lần, phân ra mầu xanh và mầu đen là chất dộc trong gan theo phân ra ngoài, áp dụng 2-3 tối cho đến khi ra phân vàng thành khuôn, và đo lại áp huyết và nhịp tim có thay đổi là có sự chuyển hóa, thì túi mật đặc sẽ hóa lỏng, ấn đè tay vào vùng gan mật dưới sườn phải thấy hết đau tức, hết thấy cục cứng, dễ thở, hết đau tức nhói tim ngực là thành công.

Trường hợp 8.Nguyên nhân chuyển hóa nghịch.
Nguyên nhân chuyển hóa nghịch lúc nào cũng là do thiếu đường do từ cách chọn thức ăn, vì sợ đường huyết cao hơn tiêu chuẩn của bác sĩ, nên chọn thức ăn không có đường, gây ra tất cả các bệnh của các cơ quan nội tạng và ung thư thì thủ phạm giết người âm thầm một cách vô hình chính là tây y hạ thấp tiêu chuẩn đường huyết trong giới hạn 70-100mhg/dl mà không có tiêu chuẩn no sau khi ăn, làm cho mọi người thiếu năn lượng calo để hoạt động, vì mỗi bữa ăn chỉ cho phép đường huyết tối đa 100mg/dl thì chuyển đổi ra năng lượng calo chỉ có 334 calo, một ngày ăm 3 bữa chỉ có khoảng 1000 calo, trong khi tiêu chuẩn bình thường của người khỏe mạnh cần 2000 calo mỗi ngày mới có sức khỏe. Như vậy tiêu chuẩn đường huyết thấp là sai, chính là thủ phạm âm thầm gây hại sức khỏe cho mọi người.
Khi bao tử chuyển hóa nghịch là trước khi ăn thay vì bao tử nhẹ, thì tâm thu thấp ví dụ 120mmHg, sau khi ăn bao tử nặng thì tâm thu 130mmHg, nhưng chuyển hóa nghịch là trước khi ăm tâm thu cao 130mmHg, sau khi ăn tâm thu thấp 120mmHg, thì bữa ăn này gây ra bệnh trào ngược, bệnh bao tử, bệnh tụy tạng, bệnh phổi, bệnh thận, bệnh thiếu máu
Khi gan chuyển hóa nghịch, thì gan không hấp thụ, rối loạn chuyển hóa máu, mỡ, xơ gan, viêm gan, ung thư gan…
Khi áp huyết cả hai tay chuyển hóa nghịch dẫn đến ung thư
Khi chỉ có 1 trong 2 tay có áp huyết chuyển hóa nghịch thì chỉ chữa một bên, bên gan xúc gan tẩy độc máu mỡ bằng Phan tả Diệp, bên bao tử xổ bằng Muối đáng khi áp huyết cao, bằng baking soda pha đường khi áp huyết thấp.

Trường hợp 9, Áp huyết chết không chuyển hóa
Những ai có áp huyết chết, sẽ bị chết bất đắc kỳ tử vì cơ thể suy nhược, suy dinh dưỡng vì không hấp thụ và chuyển hóa.
Trường hợp này tây y cũng tìm không ra bệnh vì thấy áp huyết 2 tay đều tốt theo kiểu tây y.
Như tay trái tay phải giống nhau, đều tốt trước ăn sau ăn. Như trước ăn sau ăn tay trái, tay phải giống nhau như của một bệnh nhân đến phòng mạch của tôi, đo được 125/70mmHg 75, tay trái 125/ 68mmHg 72 bác sĩ khám nói áp huyết của anh tốt quá. Khi anh đến tôi nhờ khám lại, tôi hỏi anh bác sĩ nói áp huyết của anh tốt sao anh lại phải đi khám, anh trả lời vì tôi bị mệt tim, khó thở, ăn không tiêu, người cứ gầy dần hốc hác, xét nghiệm máu chụp phổi, tim đều tốt. Tôi hỏi anh là anh muốn tôi nói thật không về nguyên nhân bệnh của anh không. Và tôi nói anh đang có áp huyết chết là cơ thể không chuyển hóa thức ăn và hấp thụ thức ăn, anh nên vào khoa cấp cứu nhà thương ngay, anh nghe tôi vào nhà thương cũng tìm không ra bệnh sau 1 tuần thì anh ngủ yên trong giấc ngủ ngàn thu.

Trường hợp 10. Chuyển hóa đồng bộ giống nhau.
Đừng lầm áp huyết chết và áp huyết 2 tay chuyển hóa đồng bộ giống nhau. Vì mỗi bữa ăn cách nhau 4 tiếng giống như một đoạn đường từ A đến B, hai người đi ngược chiều, gặp nhau ở đoạn giữa sau 2 tiếng,
Như khi no áp huyết tâm thu bao tử cao 130mmHg, ví như người ở đầu A đi xuống đầu B thì áp huyết giảm dần. Còn áp huyết tâm thu bên gan đói 120mmHg ở đầu B đi lên A tăng dần, sau 2 tiếng thì áp huyết bên bao tử xuống còn 125mmHg thì áp huyết bên gan sau 2 tiếng cũng tăng dần lên 125mmHg.
Khác với áp huyết chết là 2 tay trước ăn và sau ăn đều giống nhau không thay dổi.

Cho nên khi chúng ta đo áp huyết của người khỏe mạnh không bệnh mà có số đo 2 tay giống nhau, thì hỏi có phải anh đã ăn được sau 2 tiếng đồng hồ không.
Nếu sau 2 tiếng không đồng bộ giống nhau mà có chênh lệch cao hơn hay thấp hơn là có dấu hiệu chuyển hóa kém do gan hay do bao tử, do nguyên nhân gì thì nhìn vào đường huyết, nhịp tim, nhiệt độ và pH nước bọt, đó là những nguyên nhân gây bệnh, nhờ 4 máy này mà chúng ta có thể khám phá ra nguyên nhân bệnh.

Kết luận:
Nguyên nhân gây ra các bệnh đều thấy được qua nhịp tim và thiếu đường do đường huyết thấp sau khi ăn, mọi người kiêng sợ bệnh tiểu đường, sợ đường huyết cao hơn tiêu chuẩn giới hạn của các bác sĩ.
Vậy tiêu chuẩn đường huyết của bác sĩ hiện nay là đúng hay sai, thì chúng ta phải biết nhu cầu cần đường huyết của mỗi chúng ta khác nhau mà chúng ta có thể tìm ra được.
Thí dụ mọi người đo đường huyết trước khi ngủ, thí dụ 10 giờ bắt đầu ngủ, có người đo đường huyết trước khi ngủ là 100mg/dl, có người 150mg/dl, có người 200mg/dl, sau khi ngủ 7 tiếng, thì khi ngủ dậy đo đường huyết còn bao nhiêu.
Kết quả người có đường huyết 200mg/dl thì sau 7 tiếng ngủ đường huyết còn 130mg/dl, có nghĩa mỗi giờ ngủ có nghĩa cơ thể không làm gì thì tại sao đường mất đi đâu, không cần thiền, chúng ta cũng biết tim vẫn làm việc, phổi vẫn thở, thì 2 cơ quan này trong 7 tiếng ngủ đã lấy mất di 70mg/dl, có nghĩa cơ thể không làm gì cả mà phổi và tim trong 24 giờ một ngày đã mất 240mg/dl.
Người có đường huyết 150mg/dl, như ngủ ngáy to thở mạnh, sáng đo dđường huyết còn 60mg/dl, như vậy 7 tiếng mất 90mg/dl,
Như vậy không cần phải nói kết quả của người có đường huyết thấp trước khi ngủ 100mg/dl, trung bình mỗi giờ ít nhất mất 10mg/dl, trước khi ngủ đường 100mg/dl, đường dưới tiêu chuẩn của bác sĩ 70mg/dl sẽ bị hôn mê, thì người này mới ngủ có 3 tiếng đã hôn mê vì dưới 70mg/dl, và đường huyết tiếp tục tụt thấp theo từng giờ sáng sáng đã ngủ một giấc ngũ dài cuối cùng trong đờ để bước qua thế giới của thân trung ấm.
Như vậy đường huyết theo tiêu chuẩn của các bác sĩ hiện nay đang áp dụng là đúng hay sai ?

Phần này là tìm nguyên nhân bị bệnh do yếu tố nào rất rõ ràng, thì cách chữa cũng rất rõ ràng, thiếu yếu tố gì phải bổ sung yếu tố ấy. Chúng ta sẽ nghiên cứu và chọn lựa những thức ăn phù hợp với nhu cầu ở bài sau là bài chữa bệnh bằng thức ăn thay thuốc, đựợc kiểm chứng qua máy đo áp huyết, nhịp tim, đường huyết, nhiệt độ và pH nước bọt, trước khi ăn và sau khi ăn.
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7022
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Trang trước

Quay về Tài liệu Tự Học Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến2 khách