TÌM GẶP TRƯỜNG XƯA, BẠN CŨ
NGUYỄN ĐẮC ĐIỀU CVA 51-58
Sau mấy ngày nóng lên đến hơn 80 độ F, từng đợt gió từ biển thổi mạnh vào đất liền rung chuyển cây cối và làm dịu dần bầu không khí ngột ngạt của thành phố San Diego. Tôi có thói quen thả bộ hàng ngày trên con đường có 2 hàng phượng tím trong công viên gần nhà để thư dãn. Hôm nay, hoa phượng tím rụng đầy đường. Chân bước đi trên hoa, nhìn mầu hoa tím, tôi nhớ đến mầu hoa phượng đỏ tại quê nhà của thời còn cắp sách đến trường. Bài ca Hè về của thầy Hùng Lân bỗng văng vẳng trong tôi: “Trời hồng hồng, sáng trong trong/ Ngàn phượng rung nắng ngoài song/ Cành mềm mềm, gió ru êm/ Lọc mầu mây bích ngọc qua mầu duyên/ Đàn nhịp nhàng, hát vang vang/ Nhạc hòa thơ đón hè sang…”. Mầu sắc và âm thanh đã đưa tôi trở về dĩ vãng cách đây gần 70 năm để tìm gặp trường xưa, bạn cũ.
…Đầu năm 1948, tôi xin vào học lớp Tư trường Nguyễn Công Trứ thường được gọi bằng cái tên dân gian là trường Hàng Than, vì trường tọa lạc trên đường này. Hiệu trưởng là cụ Nguyễn Trọng Hàn, thân phụ Nguyễn Đức Hòe và là bác ruột của Nguyễn Tấn Khang, Nguyễn Quốc Quân, và Nguyễn Đan Quế. Lúc mới vào học, trường dậy bằng tiếng Pháp, nhưng sau đó Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân đã chỉ thị các trường Việt phải dậy bằng tiếng Việt. Năm 1950 tôi học lớp Nhất với thầy Hoàng Đình Tuất. Người thầy hơi gầy, dong dỏng cao, nước da ngăm bánh mật, cặp mắt tinh anh nhưng rất nghiêm khắc. Thầy dùng một thước nhôm rộng khoảng 2 cm để đánh vào bàn tay những học sinh nào phạm lỗi, nhưng thực ra thầy là một giáo viên rất tận tụy và thương mến học trò. Hình phạt đó chỉ là cách biểu hiện tính răn đe của thầy để học trò phải chăm học. Vì biết thế nên dù có bị phạt, học trò vẫn rất quý trọng thầy, bằng chứng rõ ràng, vào dịp Tết, chúng tôi đã đến chúc tuổi thọ tại nhà thầy, cách phố Huế không xa. Trường còn có ba giáo viên khác nữa là thầy Trần Ngọc Trụ, thầy Nguyễn Quý Bính và thầy Hoàng Đình Tuất. Các thầy đã có công biên soạn 2 bộ sách Tập Đọc và Toán Pháp từ lớp Ba đến lớp Nhất. Tôi nhớ mãi là mình rất thích bài thơ “Anh hùng vô danh” của Đằng Phương, mà tôi đã dùng trong cuốn Tập Đọc lớp Nhất để thi vấn đáp trong kỳ thi văn bằng Tiểu học, mãi sau này tôi mới biết Đằng Phương là bút danh của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Chính nhờ học lớp của thầy và học thuộc cả 2 cuốn Tập Đọc và Toán Pháp lớp Nhất mà tôi đã đậu Tiểu học và cũng nhờ đó, vượt qua được kỳ thi tuyển vào lớp đệ Thất trường trung học Chu văn An niên khóa 1951-1952. Thú vị nhất là thầy đã chuyển những công thức toán học thành những vần thơ dễ nhớ như: “Muốn tìm diện tích hình tròn/ Pi nhân bán kính bình phương sẽ thành” hay “Trên đường kẻ trước với người sau/ Hai kẻ đồng chiều đuổi gấp nhau/ Vận tốc hai bên tìm hiệu số/ Đường dài chia với, khó chi đâu”…Học trường hàng Than, tôi thường ra trước cửa trường để mua kẹo kéo hay kẹo bào bằng cách quay một hình tròn có đóng nhiều đinh chia thành nhiều ô, mỗi ô ghi một con số như 1, 2, 3… Mũi tên ngừng số nào thì thắng số đó, mãi sau mới biết...họ để số 1 ở nhiều ô hơn và chỉ có rất ít các số 2 , 3. Trước cửa trường hàng Than còn có gánh phở Tráng nổi danh mà sau này khi lên trung học, khá xa trường cũ, nhưng nhờ đọc phóng sự Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng trên tuần báo Mới, cũng nói nhiều đến gánh phở này nên tôi có ḍip quay trở lại ngôi trường cũ để thưởng thức món phở Tráng đặc biệt này.
Thật ra, lúc nộp đơn xin thi vào trường Chu Văn An tôi chưa biết đến danh tiếng của ngôi trường này, chỉ nghĩ đến một lý do đơn giản nhất là ... đường đi học thuận tiện vì gần nhà. Cho tới khi mẹ tôi chuyện trò với bà con, với bạn hàng trong khu phố, thấy ai cũng ca ngợi, khen nức nở, lúc đó mẹ tôi mới nhận ra...bà mỉm cười, rất hãnh diện về tôi. Một trong những lý do mà bà con bạn hàng thường chứng kiến là hàng ngày, tôi thường bê từng chồng vở cao ngập đầu, thi hành công tác trao hàng một cách gọn gàng, nhanh nhẹn, hệt như một người làm công, vậy mà nay đã trở thành một học sinh trường Trung học nổi tiếng: Chu Văn An!!! Trong khi con trai cả của Ông Hân, chủ nhân nhà xuất bản Kuy Sơn, cư ngụ ngay góc phố hàng Thuốc Bắc và hàng Phèn, thi 2 năm liên tiếp mà không đậu. Kuy Sơn là nhà xuất bản lớn, có huy hiệu Tháp Rùa, đã xuất bản nhiều sách có giá trị, trong số đó có “Bến nước ngũ bồ” của Hoàng Công Khanh và “Thần tháp Rùa” của Vũ Khắc Khoan, bìa sách do họa sĩ Lương Xuân Nhị, ở phố hàng Thuốc Bắc, vẽ.
Thủa tôi học trường Chu Văn An, trường tọa lạc trên đường Đỗ Hữu Vị thuộc cửa Bắc nên còn được gọi là trường Chu Văn An-cửa Bắc hay Chu Văn An- Đỗ Hữu Vị. Trường gồm một căn nhà lầu 3 tầng, một nhà để xe đạp đi bằng cửa phụ qua một hẻm từ đường Quan Thánh và một nhà chơi, nối tiếp với một căn nhà lợp tôn (dùng làm lớp dậy nhạc) cạnh cửa chính hướng ra đường Đỗ Hữu Vị. Điều đáng ngạc nhiên là cho mãi tới nay, nơi cửa Bắc, vẫn còn dấu tích một lỗ hổng lớn do súng của quân Pháp bắn vào thành Thăng Long trước kia. Ban Giám hiệu gồm có thầy Hiệu trưởng Vũ Ngô Xán, cụ Giám học Vũ Đức Thận và ông Tổng giám thị Nguyễn Phụng.
Năm đệ Thất B3, tôi được học Pháp văn với thầy Nguyễn Bá Lượng, Anh văn với thầy Nguyễn Văn Sửu, Việt văn với thầy Đàm Xuân Thiều, Vẽ với thầy Nguyễn Dung, Nhạc với thầy Hoàng Văn Hướng (Hường) tức nhạc sĩ Hùng Lân, Địa lý với thầy Bùi Đình Tấn, Toán với thầy Nguyễn Tá, Hán văn với cụ Nguyễn Tiếp…Các thầy phụ trách về thể dục, thể thao gồm có thầy Bùi Xuân Đáng, Lê Đức Hiển, Bùi Hợi và thầy Nguyễn Quý Bính. Thầy Đáng và thầy Bính rời khỏi ngành giáo dục sau khi di cư vào Nam, vì gia nhập quân đội. Thời gian học đệ Thất B3, tôi học chung với các bạn: Lê Văn Di và Phạm Mạnh Cường con chủ tiệm thuốc Hồng Khê phố hàng Bồ, các bạn khác như Nguyễn Xuân Hoàn, phố hàng Thuốc Bắc, Nguyễn Gia Lộc, phố hàng Phèn, Phùng Ngọc Tường và Lê Vương Nghiệp phố hàng Đồng, Lê Văn Hiển, phố hàng Bát Đàn, Nguyễn Văn Vu, phố hàng Quạt, Lê Đình Lựu, phố Hà Trung, Vũ Dũng, phố hàng Trống…và một số bạn ngụ ở khu ngoại thành như Nguyễn Văn Bật, Trần Đình Phúc, Phạm Văn Bính, Nguyễn Viết Hùng (khi vào Nam đổi tên thành Nguyễn Thế Vinh, học Quốc gia hành chánh khóa 9)…Thú thật là trong số bạn bè, có vài đứa thân nhau hơn như...với Hoàn, vì sau giờ học thường hay đi coi ciné, với Lộc vì đi périssoire (nhà Lộc có thuyền đậu trên Quảng Bá) và với Lựu vì có cùng "gu" thể dục, thể thao và văn nghệ. Không phải chỉ các bạn học ở đâu, tôi còn biết: Thầy Nguyễn Tá, con cụ Nguyễn Văn Tố, nhà ở phố hàng Bát Đàn, phố nhà tôi đâm thẳng qua nhà thầy, thầy Nguyễn Bá Lượng ở phố hàng Gai và cụ Vũ Đức Thận thuê căn phòng lầu 3 số 82 hàng Thuốc Bắc của ông bà Xuân Quang, là bố mẹ Nguyễn Xuân Hoàn. Có chuyện này, rất ư là hy hữu: Đó là bố mẹ Lê Văn Hiển có 7 người con trai (không có con gái) ở sát ngay cạnh nhà bà cô họ tôi, lại...có 7 cô con gái (không có con trai).
Tôi không rõ đây là công tác xã hội của trường hay là việc làm riêng của Thầy, chỉ biết thầy Tổng giám thị Nguyễn Phụng thường hay tổ chức những buổi chiếu ciné tại các rạp King Đô, Olympia, Club …cho học sinh với giá đồng hạng 5 đồng? Vì trường không có đủ cơ sở như nhà tập hay sân vận động nên về thể thao, trường chỉ chuyên chú vào môn bóng chuyền và bóng bàn. Thầy Bùi Xuân Đáng đã huấn luyện và hướng dẫn đội bóng chuyền Chu Văn An một cách rất nghề nghiệp, nhờ đó đội bóng CVA đã oanh liệt đoạt giải vô địch học sinh Hà Nội. Trong số cầu thủ đội vô địch, có 2 con trai của thầy Vũ Ngô Xán, các anh này sau khi thi đậu tú tài 2, đều đi du học tại Úc châu.
Năm 1953, trường xuất bản Đặc San Tre Xanh dầy 80 trang do 2 giáo sư Nguyễn Sỹ Tế và Nguyễn Tường Phượng làm Cố vấn. Nội dung Đặc San gồm đủ những mục như Văn chương, Khoa học, Bạn gái, Nhạc kịch, Chuyện đó đây và Giải trí. Đáng hãnh diện là Anh Nguyễn Xuân Khoan có truyện “Học chạc” được Ban biên tập chọn đăng trong Đặc San. Giáo sư Nguyễn Tường Phượng, đã lược dịch bài “Đầm Miết Trì’ của Chu An đăng nơi trang 4 của Đặc san như sau: “Trăng nước cầu bên rỡn bóng tà,/ Hồ sen êm lặng lá chen hoa :/ Cá ngoi đầm cổ rồng đâu nhỉ ?/ Mây phủ đồi không hạc lánh xa:/ Lối đá gió đưa hương quế thoảng,/ Cửa tùng suối chắn lớp rêu pha:/ Tấm lòng chưa hẳn như bùn đất,/ Nhắc tới vua xưa lệ ướt nhòa”. Tôi hiện còn giữ được một bản chính cuốn Đặc san này do bạn Nguyễn Văn Bật gửi tặng. Hàng năm trường thường tổ chức những buổi Đại hội Ca-Nhạc-Kịch tại nhà Hát Lớn để giúp Quỹ Tương trợ học sinh nghèo.
Từ nhà đến trường, khi học Nguyễn Công Trứ cũng như lúc học Chu Văn An, tôi thường phải đi qua phố hàng Cót, phố có 2 hàng cây sấu hai bên đường, có đường xe điện chạy ở giữa, vào đầu mùa hè sau mỗi trận mưa to, sấu chín rụng đầy đường. Tôi nhặt sấu chín rụng ăn sao mà ngon thế. Tôi sinh ra tại nhà bảo sinh phố hàng Cót và trường tôi học đầu tiên trước năm 1945 cũng tại phố này. Tôi không còn nhớ nổi tên trường, nhưng lại nhớ trường nằm đối diện với trường tiểu học Thanh Quan. Điều vui nhất là...không hiểu sao, tôi lại vẫn nhớ bài vè, dậy học trò cách ứng xử, phòng khi máy bay Mỹ thả bom Hà Nội như sau: “Nghe còi báo động tu tu/ Chớ nên hoảng hốt gọi u vang trời/ Miệng ta phải nín như câm/ Ta vơ sách vở vào gầm bàn ngay/ Rồi ta im lặng khoanh tay/ Chờ người đến đón xin thầy ta ra/ Nếu không ai đón về nhà/ Xuống hầm trú ẩn, chúng ta sợ gì”.
Bất kể là học tiểu học hay trung học, sau giờ học tôi đều phải phụ giúp công việc buôn bán của mẹ tôi như làm thợ trong xưởng kẻ giấy, liên lạc với họa sĩ Zuy Nhất ở phố Cầu Gỗ vẽ bìa vở, giao hàng cho các tiệm buôn ở hàng Phèn, hàng Thuốc Bắc, hàng Bồ, hàng Cân … và làm sổ sách khai và đóng thuế Thương vụ…Tuy bộn rộn như thế, tôi vẫn dành được thời giờ để đi coi ciné ban tối hay chủ nhật với các bạn tại các rạp Modern, Olympia, King Đô, Long Biên, Bắc Đô, Philharmonique, Lửa Hồng, Eden, Club, Majestic, Hà Nội, Ciros, Đại Nam…Riêng rạp Studio, rạp duy nhất có máy lạnh thì tôi chỉ coi ở đó có một lần khi xem phim Eve vì phim này có nhiều tài tử gạo cội đóng. Ngoài ra tôi thường tập thể thao trên sân vận động Septo hàng Đẫy rồi về đường Gia Long ăn bánh mì paté trên khu đất trống trước cửa hãng Hàng không Việt Nam. Tôi cũng thường đi ăn thịt bò khô gần quán Mụ Béo, ăn phở gà Huyền Trân Công Chúa, phở ngẩu pín Vinh Ký ở phố Huế trước cửa rạp Đại Nam (tiệm này sau mở tại Sài Gòn trên đường Trần Quốc Toản, gần nhà thương Nhi Đồng), quán mì trước cửa trường Nguyễn Trãi và bánh tôm tại bờ hồ Hoàn Kiếm hay trên đường Cổ Ngư. Dĩ nhiên tôi cũng là khách hàng của ông Tầu bán lạc rang gần chợ hàng hoa hồ Hoàn Kiếm. Hình như tôi mê câu hát: Kiến thiết Quốc Gia/Giúp đồng bào ta/Mua lấy cái nhà/Giầu sang mấy hồi...lâu rồi, nên ngay khi biết đoàn Gió Nam từ miền Nam ra trình diễn tại Hà Nội, tôi đã mua vé coi hai xuất liền, chỉ vì quá thích ban nhạc Thăng Long và kịch sĩ Trần Văn Trạch.
Lên đệ Ngũ, trường được tăng cường một số giáo sư mới tốt nghiệp trường Cao đẳng sư phạm đến dậy là các giáo sư Nguyễn Văn Phong, sau vào Nam được học sinh đặt cho biệt danh là Phong Lửa, Nguyễn Như Cương, Đặng Ngọc Thiềm và Bùi Thái Trừu. Tôi còn nhớ năm 1953, giáo sư Cương lập gia đình tại Hải Dương, tôi đã đại diện lớp đăng Chúc Mừng trên báo Tia Sáng. Sau này, thầy Nguyễn Như Cương cũng là giáo sư môn Kinh tế của Học viện Quốc gia Hành chánh, Sài Gòn, nhưng tôi không có duyên thụ giáo thầy vì tôi học ban Hành chánh.
Có một chuyện, ngày ấy tôi thắc mắc nhiều lắm mà không giám hỏi ai. Tôi biết năm 1953-1954 là thời gian việc buôn bán của gia đình tôi rất phát đạt. Có lẽ vì thế mà mẹ tôi quyết định không di cư vào Nam theo hiệp định Genève. Đã không di cư như một số gia đình bạn bè tôi thì thôi, mẹ tôi còn dồn hết vốn liếng sẵn có, mua thêm thật nhiều nguyên liệu giấy để tích trữ và mua luôn máy móc của nhà in IDEO, họ bán rẻ trước khi tháo chạy. Việt cộng tiếp thu Hà Nội ngày 10 tháng 10 năm 1954, lúc đó, tôi vẫn tiếp tục học tại trường Chu Văn An- cửa Bắc. Có điều chẳng mấy ai ngờ là liền sau đó, chương trình học, ngoài các môn thường lệ, đã có thêm ngay 2 môn học mới là "Chính trị và Kiểm thảo". Kiểm thảo cả thầy lẫn trò (một hình thức đấu tố). Lập tức không khí lớp học cũng như sinh hoạt học đường trở nên ngột ngạt một cách khác thường. Học hành trong bầu không khí tẻ nhạt đó, chỉ sau vài tháng, tôi bắt đầu chán học và rồi...một hôm, mẹ tôi nói riêng với tôi: “Tối hôm qua bố con về báo mộng bảo mẹ con mình phải đi vào Nam ngay. Anh con đã theo nhà vợ ở lại rồi, bây giờ chỉ còn con là con trai nên con phải đi trước. Mẹ sẽ tìm cách đi sau với chị và em con sau”.
Cuối tháng 12 năm 1954, mẹ tôi cho tôi đi xe lửa xuống Hải Phòng một mình, ở nhà một người bà con bên ngoại. Nhờ đó, tôi đã có dịp theo gia đình họ đi tầu của hải quân Pháp vào Nam. Tới Sài Gòn vào đầu năm 1955, tôi tạm trú tại nhà bà cô họ ở 23 đường Barbé, sau đổi tên thành Lê Quý Đôn. Nhà thầy Bùi Đình Tấn cũng ở trên đường Barbé, đối diện căn nhà tôi cư ngụ.
Tôi được chấp nhận vào học tiếp lớp đệ Tứ B3 trường Chu Văn An, hiện đang học nhờ trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký vào buổi chiều. Ít tháng sau, mẹ và chị em gái tôi vào đến Sài Gòn thì mẹ tôi thuê một căn nhà nhỏ trong khu Bàn Cờ ngay bùng binh đối diện với trường Pétrus Ký.
Theo tài liệu, niên học 1954-55, trường Chu Văn An khai giảng có 4 lớp đệ Tứ và 14 lớp đệ nhị cấp với 23 giáo sư và 1168 học sinh, trong số này có 24 nữ sinh. Sau khi đỗ bằng Trung học đệ nhất cấp, tôi tự thưởng cho mình một chuyến du lịch Nam Vang, đến tận Đế Thiên Đế Thích, giá chỉ 500 đồng do Bộ Xã Hội tổ chức, nhằm cổ xúy những hoạt động lành mạnh sau khi chính phủ đóng cửa Đại Thế Giới và Bình Khang của Bình Xuyên, nơi phát sinh tất cả những tệ đoan xã hội và tội ác. Trong chuyến đi này có bạn Nguyễn Xuân Khoan cùng đi, trong đoàn còn có các thầy Bùi Đình Tấn, Nguyễn Ngọc Quỳnh và thân mẫu cùng thầy giám thị Tự.
Niên học 1955-56, trường Chu Văn An dọn sang trụ sở mới, ngay đằng sau trường Pétrus Ký. Trường gồm một tòa nhà 3 tầng lầu, một căn nhà trệt gồm 2 phòng học và một phòng học mới xây thêm nối liền 2 căn nhà với nhau tạo thành hình chữ L. Lớp đệ Nhị A của các bạn Nguyễn Đức Năng và Lương Ngọc Hồ học tại phòng này, mỗi khi mưa to hạt mưa đập mạnh vào mái tôn, tạo những âm thanh chát chúa, át cả lời giảng của giáo sư Việt văn Vũ Hoàng Chương. Trước cửa tòa nhà chính là 2 căn nhà tôn dùng làm nơi trú ngụ của lao công và gác gian và đó cũng là nơi bán đậu đỏ, xôi chè và bánh mì của Ba Tất. Trường có một sân nhỏ, giữa sân là cột cờ, bên trái cột cờ là một cây cổ thụ. Song song với trường và đối diện với trụ sở tạm thời của Văn Khố quốc gia là một nhà để xe đạp dùng chung cho cả giáo sư lẫn học sinh cùng một sân bóng chuyền. Dưới bóng mát của cây cổ thụ là xe thịt bò khô và một ông Tầu bán phá lẫu. Khi mua phá lẫu, Hoàng Đức Trí thường chỉ chỏ lung tung, hết thứ này đến thứ khác, mục đích làm hoa mắt ông Tầu. Cuối cùng, thế nào Trí Bườm cũng “nhón” thêm được một vài món không phải trả tiền. Nói về tinh nghịch tuổi học sinh, không ai qua nổi Hoàng Đức Trí, Nguyễn Tấn Khang và Lê Ngọc Quý.
Lối vào trường là từ đường Trần Bình Trọng, qua một con đường nhỏ trải đá sỏi dăm, cạnh con đường này là sân vận động dùng chung cho hai trường Pétrus Ký và Chu Văn An. Bên cạnh sân vận động có một dẫy nhà tôn dùng làm cơ sở huấn luyện Quân sự Học đường, nguyên trước đây là chuồng nuôi ngựa của quân đội Nhật. Trường Chu Văn An trong niên khóa 1957-58 đã thu nhận cơ sở này để mở thêm các lớp đệ Nhất B5, B6, B7 và B8. Học sinh các lớp thuộc cơ sở chính, thường gọi ghẹo các lớp này là “đệ Nhất Chuồng ngựa”. Đối diện với sân vận động là một khu gia cư. Thường học sinh đi tắt từ đường Nguyễn Hoàng qua những ngỏ nhỏ xuyên qua khu gia cư để vào trường. Điều khó hiểu là trường đã ở vị trí này mấy năm rồi, vậy mà đến giờ vẫn không có bảng nào mang tên trường. Nơi đầu hồi trường là một sân bóng rổ. Ban Giám hiệu gồm có cụ Hiệu trưởng Vũ Ngô Xán, cụ Giám học Vũ Đức Thận và ông Tổng giám thị Trần Quang Lãng. Đến niên học học 1956-57 thì giáo sư Trần Văn Việt thay thế cụ Vũ Ngô Xán về hưu, cụ Nguyễn Hữu Văn thay thế cụ Vũ Đức Thận, được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Nguyễn Trãi. Dù hai cụ Xán và Thận đã dời khỏi trường, nhưng học sinh CVA vẫn nhớ hình ảnh hai cụ đều mặc complet mầu trắng, riêng cụ Thận có giọng mũi khụt khịt.
Tòa nhà chính 3 tầng của trường lấy lại của trụ sở công an Bình Xuyên chiếm đóng mà nguyên trước đây thuộc khu nội trú của trường Pétrus Ký, có cầu thang đi ở chính giữa, 2 tầng trên mỗi tầng có 4 lớp. Riêng tầng trệt, căn đầu là nhà vệ sinh dùng chung cho giáo sư và học sinh nam nữ rồi đến 2 lớp học, kế là cầu thang. Tiếp theo là văn phòng nhà trường gồm phòng Hiệu trưởng ở phía trong và phòng Hội giáo sư ở phía ngoài, rồi đến phòng học chót (lớp đệ Nhị B3 của tôi học tại phòng này). Tổng cộng trường có 14 phòng học, vì học cả sáng lẫn chiều nên trường có 28 lớp. Ngoài số nữ sinh đệ Nhất do trường Trưng Vương gửi sang, còn có một lớp nữ sinh lớp đệ Thất của trường Trưng Vương gửi học nhờ tại căn phòng cuối cùng của căn nhà trệt. Cô con gái út của cụ Vũ Ngô Xán là 1 trong số nữ sinh này. Sau năm đệ Lục vì một sự kiện xẩy ra giữa một nam sinh lớp đệ Nhị với một nữ sinh lớp đệ Lục khi đi làm công tác xã hội nên trường Chu Văn An buộc phải giao hoàn lớp này về lại trường Trưng Vương, nhưng vì trường Trưng Vương chưa có đủ chỗ nên lớp này lại phải gửi sang học nhờ trường Gia Long một năm nữa trước khi chính thức về trường Trưng Vương.
Trong đời học sinh, năm học lớp đệ Tam B3, đã để lại cho tôi nhiều kỷ niệm nhất. Trong giờ Việt văn đầu niên học, giáo sư Vũ Khắc Khoan đã nhắn nhủ: “Năm đệ tam là năm duy nhất các anh không phải lo thi cử, sau năm này cứ mỗi cuối năm các anh lại phải thi một kỳ thi quan trọng: Tú tài I, Tú tài II và từng cuối năm trên Đại học. Ở lớp đệ Tam này, các anh đã đủ trưởng thành để chơi.” Với khổ người thấp trong một thân hình lực sĩ và một mái tóc bồng bềnh, tay luôn cầm điếu thuốc, vóc dáng hệt như một nghệ sĩ, thường mắng những học sinh hay đùa nghịch trong lớp:“Tôi bảo thật, nếu không sửa đổi, lo học hành, cho đến ngày Bắc tiến, tôi vẫn còn thấy anh ở cái lớp đệ Tam này”.
Khi trường tổ chức hệ thống Hiệu đoàn thì giáo sư Nguyễn Đức Hiếu được chọn làm Hiệu đoàn trưởng đầu tiên. Mỗi lớp là một Đoàn, mỗi 2 bàn thành một Đội. Giáo sư Nguyễn Đức Hiếu kiêm nhiệm giáo sư Hướng dẫn lớp đệ Tam B3 của tôi. Hai bàn đầu là đội Vân Đồn, gồm có : Nguyễn Gia Lộc, Nguyễn Quang Liêu, Nguyễn Đắc Điều, Bùi Thế Phụng, Trần Ngọc Thiều, Phạm Chí Công, Đào Hữu Châu, Nguyễn Ngọc Định và Nguyễn Thiệu Hùng. Nguyễn Thiệu Hùng nguyên là học sinh trường Pháp chuyển qua nên anh sinh hoạt độc lập. Anh mang kính cận dầy và dáng dấp như một triết gia, sau anh làm thơ dùng bút danh Mai Trung Tĩnh. Cuối lớp có anh Lê Đức Vượng, khi làm thơ anh lấy bút hiệu Vương Đức Lệ. Sau năm đệ Tam hai anh Hùng và Vượng chuyển sang học ban C và vài năm sau hai anh xuất bản chung một tập thơ nhan đề “ 40 bài thơ ”, tác phẩm này được giải Nhất Văn học Nghệ thuật Toàn quốc bộ môn Thơ của Tổng thống. Riêng 8 thành viên còn lại sinh hoạt mật thiết với nhau và coi nhau như anh em, thứ tự được xếp theo ngày sinh : Nguyễn Gia Lộc là anh Cả, Nguyễn Quang Liêu là anh Hai…Nguyễn Ngọc Định là em Út. Cụ Nguyễn Trọng Huy, thân sinh anh Định, làm Hiệu trưởng trường tiểu học Cầu Kho nên được cấp một căn nhà biệt lập ở giữa các khu trường Chu Văn An, trường Đại học Khoa học, Trung Tâm học liệu và trường Quốc gia sư phạm. Cùng chung sống trong căn nhà này ngoài hai cụ Huy còn có gia đình giáo sư Nguyễn Văn Phú, các anh Nguyễn Trọng Nho, Nguyễn Đắc Lập, Nguyễn Ngọc Định…và Tạ Quang Khôi. Khi giáo sư Nguyễn Văn Phú xây xong căn nhà ở đường Trần Hưng Đạo thì Nguyễn Ngọc Định cũng về ở cùng.
Tất cả thành viên của đội Vân Đồn đều ở xa trường, trừ Định, nhưng đều đạp xe đạp hay đi xe gắn máy gặp nhau hàng ngày vào buổi chiều vì buổi sáng đã đi học. Nhà Phạm Chí Công ở Trần Quang Khải-Tân Định, Đào Hữu Châu ở Dakao, Bùi Thế Phụng ở cư xá Hàng không dân sự Tân Sơn Nhất, Nguyễn Quang Liêu ở Khánh Hội, Trần Ngọc Thiều ở gần cuối đường Trương Minh Giảng, Nguyễn Gia Lộc ở Lê Văn Duyệt, riêng tôi ở khu Bàn Cờ. Nhóm gặp nhau trên sân bóng rổ, tại trường hay tại sân vận động Phan Đình Phùng, để tập dượt hàng ngày nhưng cũng cùng nhau học và làm bài tập trong lớp. Khi chơi bóng rổ, đội mặc đồng phục quần và áo thung mầu trắng, đằng sau áo thung có dán chữ Vân Đồn. Nguyễn Ngọc Định mang sách dịch sẵn cuốn Christmas Carol, dịch giả là giáo sư trường Hưng Đạo Nguyễn Trọng Nho, để các thành viên chép lại vì giáo sư Nguyễn Xuân Kỳ bắt dịch mỗi kỳ 2 trang sách chữ nhỏ, không ai dịch nổi. Ai có thể dịch hay hơn giáo sư Kỳ: ” Scrooge chết đứ đừ đừ, chết như cái đinh đóng cửa…”. Phạm Chí Công mang sách Journal ra để anh em làm thêm toán ngoài những bài tập phải làm. Ai không hiểu thì hỏi bạn. Hai người giỏi toán trong đội là Phạm Chí Công và Nguyễn Ngọc Định.
Vì được giáo sư Vũ Khắc Khoan khuyến khích ... chơi, nên vào mỗi cuối tuần, chúng tôi đều tổ chức đi chơi xa Sài Gòn. Khi thì lên suối Lồ Ồ, khi đi Biên Hòa, khi thì thăm thác Trị An (ít năm sau địa điểm này trở thành chiến khu D), khi đi Vũng Tầu…Riêng tôi được giáo sư Pháp văn Trần Văn Mại kết nạp với vài bạn học sinh khác trong trường phụ trách Trang Học Sinh của báo Tự Do vào mỗi thứ Năm hàng tuần. Báo Tự Do hồi đó, do Nhóm Chủ Trương gồm 5 thành viên điều khiển là: Phạm Việt Tuyền, Trần Văn Mại, Mặc Thu, Mặc Đỗ và Như Phong. Chúng tôi chỉ làm được một thời gian ngắn, sau đó vì Nhóm Chủ Trương tan rã, chúng tôi cũng tan rã theo. Chỉ có một kỷ niệm tôi còn giữ được đến ngày hôm nay là giáo sư Trần Văn Mại đã đối xử và tin tưởng chúng tôi như người lớn, để cho chúng tôi toàn quyền làm theo ý không qua một sự kiểm soát nào cả. Có những vấn đề, nhóm tôi phân vân không biết có nên viết không, có thuộc phạm vi học sinh không. Nhưng rồi nhóm cũng quyết định cứ viết và để trong mục mới được đặt tên là “Nói hay Đừng”, coi như là mục quan điểm của trang Học Sinh. Khi chúng tôi không còn cộng tác với báo Tự Do nữa, nhưng mục Nói hay Đừng vẫn còn tồn tại do nhà báo lão thành Hiếu Chân đảm trách cho những bài châm biếm.
Năm 1955-56 là năm có nhiều biến cố chính trị, tôi liên lạc với Nha Thông Tin trên đường Công Lý để lấy truyền đơn, bích chương về vụ 'Truất phế Bảo Đại' về phân phối cho các lớp, đi biểu tình chống Việt cộng núp danh nghĩa Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, tham gia các Hội chợ, đi đón các chiến sỹ trở về Thủ Đô sau chiến dịch Hoàng Diệu,…Năm này cũng là năm có sự hiểu nhầm giữa học sinh Chu Văn An với học sinh 2 trường Pétrus Ký và Chasseloup Laubat, mà có lúc tưởng như sẽ có đổ máu, nhưng may nhờ có giáo sư Hiệu đoàn trưởng Nguyễn Đức Hiếu can thiệp kịp thời. Đây là năm trường tham gia tổ chức triển lãm Tố Cộng tại trường Tôn Thọ Tường, giáo sư Lê Ngọc Huỳnh đã sáng tác những bài ca tố cộng ngắn rất hay, nhưng rất tiếc tôi không còn nhớ. Cũng có những cuộc đi thăm trại gà ở Long An bằng xe GMC do hai anh sinh viên Lưu Trung Khảo và Trần Đức Hiếu hướng dẫn. Một trong những lần đi chơi xa tập thể khó quên là cuộc nghỉ Hè tại Nha Trang, dành cho học sinh và giáo sư các trường trung học ở Sài Gòn đi thăm trường Hải quân, Viện Hải Dương Học, Tháp Chàm và tắm biển. Tôi hiện còn giữ một số hình ảnh chụp chung với các giáo sư Đặng Ngọc Thiềm, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Ngọc Quỳnh… và các bạn Trần Sơn Hà, Phạm Chí Công, Nguyễn Ngọc Định, Nhữ Văn Hải, Phan Long Hải…
Năm này trường có một ban Đại diện học sinh, danh hiệu chính thức là gì tôi không nhớ, do anh Trần Huy Bích lớp đệ Nhị ban C đứng đầu. Anh Phạm Công Bạch làm Trưởng ban Xã hội. Một ban Báo chí được thành lập gồm có các anh Nguyễn Huy Hiền, Nguyễn Thượng Hiệp, Đặng Bá Huy…phụ trách xuất bản tờ Đặc san Nhựa Sống. Đây là một Đặc san có một nội dung phong phú, Nguyễn Thượng Hiệp trình bầy trang nhã đẹp mắt và tranh bìa vẽ lập thể của Đặng Bá Huy. Anh Trần Huy Bích là người có công lớn trong công tác này nhưng vì tính khiêm nhường sẵn có anh không đề tên trong Ban Chủ Trương. Có thể nói từ trước đến nay, chưa có Đặc san nào của trường CVA có một nội dung phong phú hơn Đặc San Nhựa Sống. Đã là học sinh Chu Văn An-Trần Bình Trọng, chắc ai cũng còn nhớ “ Bài thơ Chu Văn An” của Đặng Đức Kiệm, người đa tài mà mệnh yểu! Anh là anh ruột bác sĩ Đặng Đức Nghiêm: …“Đây lớp người trai đứng lên kiêu vĩ/ Viết ngang trời 3 chữ Chu Văn An/ Dắt tay nhau trong ánh nắng huy hoàng/ Chân nhịp bước khiến rộn ràng thế hệ/ Nuôi máu nóng trong ngôi trường nhỏ hẹp/ Để ngày mai tung cánh khắp ngàn phương/ Ta đạp núi xô sông, vượt sóng trùng dương/ Cho vạn lý tình xuân tươi thắm mãi/ Các anh ơi, nắng mới lên rồi, tin xuân đã lại/ Hát vang lên khúc hát của đoàn ta/ Chu Văn An, muôn thủa bản trường ca/ Nghe vẳng mãi trong nghìn trang quốc sử.”
Vì quyết định di cư muộn, nên mẹ tôi chẳng thu vén được bao nhiêu tiền khi tâm hồn bất an, vội vàng kiếm đường ra khỏi Hà Nội. Do đó, vào tới miền nam, vì vốn liếng eo hẹp nên phải lên Biên Hòa kiếm đường buôn bán. Mình tôi ở lại Sài Gòn, vừa đi học vừa đi kèm trẻ tư gia, cố kiếm đủ tiền để ăn cơm tại quán Ba Tất. Anh Nguyễn Văn Tụ, cùng tuổi với tôi, đang học lớp đệ Nhất ban B, ăn và ở trọ trong nhà Ba Tất. Anh Tụ có thói quen là khi ăn phải ngồi đầu bàn, nếu ai vì không biết hay biết mà cố t̀ình ngồi vào đầu bàn là anh bỏ, không thèm ăn cơm nữa. Anh Tụ theo học Hán văn từ nhỏ, đến năm 1953 anh mới chuyển sang học chương trình Việt và đỗ Trung học phổ thông ngay năm 1954. Năm 1955, anh đỗ Tú Tài 1, năm 1956 anh đỗ Tú Tài 2. Đỗ Tú Tài xong, anh mở lớp dậy tư trên đường Phan Đình Phùng, đối diện chợ Vườn Chuối, học trò rất đông anh phải dùng micro để giảng bài cho cùng một lúc 2 lớp sát vách. Sau anh mở trường tại đường Cao Thắng và làm Hội trưởng Hội Khổng học. Anh có ra ứng cử Dân Biểu tại Sài Gòn, nhưng thất cử. Điểm đặc biệt là giai đoạn ấy, Sài Gòn chỉ có Anh Tụ và giáo sư Nguyễn Xuân Nghiên là có xe Ford Taurus mầu xanh trắng. Anh Tụ còn có tài xế mặc đồng phục trắng, đầu đội mũ lưỡi trai, lái xe cho Anh Tụ (đừng gõ lộn là Lãnh Tụ).
Một chuyện vui liên quan giữa Thầy và Trò: Một hôm, ngồi ăn cơm tại nhà hàng Ba Tất tôi tình cờ chứng kiến tận mắt cảnh treo xe đạp của giáo sư Trần Đình Ý. Đó là ngày chủ nhật, không biết có chuyện gì mà Thầy Ý đi xe đạp đến trường. Sau khi cẩn thận dựng và khóa xe ở chân cầu thang, giáo sư đi vào văn phòng. Hôm đó cả lớp đệ Nhị ban B (lớp của Nguyễn Xuân Khoan), ngay cạnh cầu thang, bị giáo sư Lê Văn Lâm phạt cấm túc cả lớp vì một lời nói bậy mà không có học sinh nào nhận lỗi. Một anh trong lớp này, trông thấy xe đạp của giáo sư Ý, bèn phóng tới, vội vàng tháo một bánh xe, cột vào dây treo cờ, như Quốc Kỳ, rồi kéo lên đỉnh cột cờ. Vì ăn cơm tại quán Ba Tất nên tôi cũng thường được ca sĩ Thanh Lan, trú ngụ trong khu gia cư đằng sau nhà Ba Tất, hay bế em sang hát cho chúng tôi nghe trong khi chúng tôi ngồi ăn. Thời kỳ này, Thanh Lan còn đang đóng vai cung nữ cho đoàn cải lương Kim Chung ở đường Hồng Thập Tự.
Năm 1956-57, tôi lên học đệ Nhị B3 cùng với một số các bạn cũ ở lớp đệ Tam B3 và thêm một số bạn mới như Nguyễn Ngọc Vỵ, Trương Minh Nhuệ, Nguyễn Ngọc Lân, Nguyễn Đình Hả, Vũ Ngọc Điềm…Đầu năm học vào giờ Sử của giáo sư Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Ngọc Định có hoa tay vẽ bằng một thứ phấn đặc biệt hình con dê trên bảng. Vào lớp, thầy Mùi xóa bảng mãi cũng không được. Có anh giả đò đề nghị thầy dùng khăn ướt thì xóa dễ hơn, không ngờ khăn ướt làm hình con dê càng lộ rõ trên bảng mầu đen. Cả lớp có một trận cười thích thú. Biết là gặp học trò phá nên thầy tỉnh bơ, không nói gì, tiếp tục giảng bài. Năm học Đệ Nhị B3, chúng tôi học buổi sáng, lớp nữ sinh đệ Lục học buổi chiều, vì học cùng phòng nên bỗng dưng nẩy ra trò trao đổi thư qua các hộc thư đã được ấn định sẵn giữa học sinh buổi sáng và buổi chiều. Không biết phát xuất từ đâu, một tập vở chép tay truyện dịch “Bẩy đêm tân hôn” được luân chuyển trong lớp. Đồng thời, Đàm Quang Toán đã nhái những bài thơ của Tản Đà bằng những lời rất dung tục qua bút hiệu Thượng Côn Hòa Thượng. Nghĩ lại thuở học trò, quả thực cũng nhiều trò rắn mắt.
Học sinh lớp trên lầu bắt đầu trốn học bằng cách ném cặp xuống sân giữa trường và nhà để xe, rồi giả vờ xin phép giám thị canh tại mỗi đầu cầu thang xuống nhà dưới đi vệ sinh, sau đó lượm cặp lẩn đi coi ciné. Học trên lầu trốn học hơi khó, chứ lớp tôi học dưới nhà, trốn rất dễ, nhưng hình như lại không có ai trốn cả. Trong số bạn bè thì Vũ Hữu San có biệt danh Thước Charles, Lê Nguyên Thống được gọi bằng Lê Chiêu Thống, Nguyễn Tấn Khang thành Khang Còi, Bùi Thế Phụng thành Phụng Tả, Nguyễn Mậu Lâm thành Lâm Con, Nguyễn Hữu Hiệp thành Hiệp Lắc, Bùi Khiết thành Bòi Khét, Lê Văn Hiển thành Hiển Xoăn, Phan Lạc Thấu thành Lạc Thối… từ năm học này. Cụ Nguyễn Hữu Văn dậy Pháp văn lớp đệ Nhị A, căn nhà mái tôn bên cạnh lớp tôi, trong lúc giảng bài đã đứng sát người vào bàn đầu. Học sinh trêu chọc cụ bằng cách...thò tay qua hộc bàn, chạm vào đùi cụ. Sở dĩ nghịch được thế vì bàn học của trường đóng rất sơ sài có thể đưa tay từ đằng sau ra đằng trước dễ dàng. Chưa hết, học trò còn gọi “cụ Văn” bằng cách nói lái tên cụ. Từ trước đến giờ, chả có vị Giám học nào hiền như cụ Văn. Nhớ hồi cụ Vũ Đức Thận làm Giám học trường Chu Văn An-cửa Bắc, lớp học đang ồn ào vì không có giáo sư, cụ chỉ cần lấy gọng kính gõ vào cửa kiếng ba tiếng, rồi khụt khịt giọng mũi là cả lớp im phăng phắc ngay.
Cuối năm học, Nguyễn Ngọc Định và tôi đều đỗ Tú Tài 1 cùng với một số các bạn trong lớp. Bạn bà chị tôi quen thân với linh mục Trần Mục Đích, Giám đốc Trung Tâm Nhân Vị Vĩnh Long, nên nhờ Linh mục Đích đưa Định và tôi lên du lịch Đà Lạt. Chúng tôi đều là Phật tử nhưng được ăn ở chung với các linh mục trong tu viện Đa Minh trên đường Bá Đa Lộc một tuần lễ, được linh mục Đích thuê xe taxi và người chụp ảnh dẫn đi thăm thác Pongour, Gougar, Prenn và Cam Ly. Hiện tôi còn giữ một số hình ảnh này. Khi tôi làm tại Đà Lạt-Tuyên Đức năm 1964-68 vùng thác Pongour-Gougar mất an ninh, du khách không thể tới thăm được. Trần Ngọc Thiều thi đậu vào học khóa 15 trường Võ Bị Đà Lạt và tử trận vì bị nội tuyến chỉ một thời gian ngắn, tại đồn cầu Bến Lức-Long An.
Sau khi đỗ Tú Tài II năm 1958, tôi học PCB với các anh Nguyễn Hữu Hiệp, Hà Ngọc Thuần, Nguyễn Hoàng Hải, Lê Văn Hiển, Đàm Xuân Khôi, Nguyễn Quốc Quân,… được nửa năm thì có kết quả thi đậu Học viện Quốc gia Hành chánh khóa 6 nên tôi chuyển sang học cùng với Nguyễn Ngọc Vỵ, Trương Minh Nhuệ, Nguyễn Công Khanh, Thái Hà Chung, Lê Minh Quang, và Nguyễn Huy Lãng (Anh Lãng sau được học bổng sang Mỹ học kỹ sư Canh Nông). Tôi nhập trường tháng 1 năm 1959 và ra trường tháng 1 năm 1962. Kỳ thi Tú tài II năm 1958 đã phá kỷ lục những kỳ thi trước vì có đến 7 học sinh đỗ hạng Bình trong số học sinh Chu Văn An đậu có Phạm Chí Công, Nguyễn Ngọc Định, Nguyễn Ngọc Giao, Vũ Mộng Hà, Trịnh Quang Vỹ…Riêng trường Hồ Ngọc Cẩn có 1 đại diện là Huỳnh Huynh. Nguyễn Ngọc Giao, con trai thứ của giáo sư Nguyễn Ngọc Cư, đựợc học bổng du học Pháp vào tháng 9 năm 1958. Công và Định ghi tên học Đại học Khoa học ban Toán, Đào Hữu Châu, Bùi Thế Phụng học Luật. Sau Phụng thi vào Học viện Quốc gia Hành chánh, ban Cao học. Đào Hữu Châu sau khi đỗ Cử nhân Luật vào làm chuyên viên cho Bộ Thông Tin/Dân vận Chiêu hồi dưới thời Hoàng Đức Nhã làm Tổng trưởng. Nguyễn Gia Lộc bị động viên và làm tại phòng Quân Bưu Bộ Tổng Tham Mưu, Nguyễn Quang Liêu làm chuyên viên Viễn thông cho hãng IT&T có trụ sở đặt trên đường Nguyễn Huệ. Thời gian tôi làm việc tại Đà Lạt, Liêu đã lên công tác nhiều lần để thiết lập và sửa chữa tổng đài điện thoại cho Ty Bưu Điện Đà Lạt-Tuyên Đức. Nguyễn Quang Liêu là người cần cù và khéo tay nhất của đội Vân Đồn. Các anh khác theo học những ngành khác nhau như Hoàng Mai Chào, học kỹ sư Nông Lâm Súc, Phạm Thăng Bình học Kiến trúc, Nguyễn Mậu Lâm, Trần Cường học Luật, Nguyễn Trọng Thi, Vũ Mộng Hà, Trịnh Quang Vỹ, Lê Đại Tường học Đại học Sư phạm, Vũ Hữu San, Nguyễn Ngọc Quyên và Nguyễn Hữu Thái nhập ngũ Hải quân…Trung tá Hải quân Hạm trưởng Vũ Hữu San là người hùng của trận hải chiến Hoàng Sa-Trường Sa với Trung Cộng năm 1974 và cũng là nhà biên khảo Biển Đông Học và Văn Hóa Nước.
Tháng 8 năm 1959, Nguyễn Ngọc Định là người đầu tiên thuộc đội Vân Đồn dời xa tổ. Định được học bổng của chính phủ Canada để theo học tại trường Đại học Laval, Québec . Lúc này, Định ở cùng nhà với giáo sư Nguyễn Văn Phú trên đường Trần Hưng Đạo, đội Vân Đồn đã tới nhà giáo sư Phú để mời Định đi ăn khao tiễn Định lên đường du học, đồng thời đi chơi Sở Thú chụp hình kỷ niệm. Tôi còn giữ vài tấm hình chụp tại đây có đông đủ hết các thành viên của đội. Trong lúc chụp hình, có một thiếu nữ đi ngang qua, một vài đội viên đã chọc ghẹo và cố ý chụp hình cô gái cùng với mình. Chi tiết này do Nguyễn Quang Liêu thuật lại, tôi không nhớ. Mấy tấm hình tôi hiện giữ không có bóng áo dài nào trong hình cả !!! Phạm Chí Công sau 3 năm tốt nghiệp Cử nhân Toán đã được học bổng sang Pháp học Cao học tại trường Đại học Caen và trình luận án về công nghệ thông tin (informatique). Phạm Chí Công đã làm về khảo cứu tại trường cho đến khi về hưu.
Các thành viên của đội Vân Đồn, ngoài Trần Ngọc Thiều tử trận, đều sinh sống tại hải ngoại ngay sau ngày 30 tháng 4, 1975. Phạm Chí Công, du học và định cư tại vùng Normandie (Pháp), Nguyễn Ngọc Định, du học và định cư tại Québec (Canada), Đào Hữu Châu và Bùi Thế Phụng, di tản và định cư tại Montréal, Nguyễn Gia Lộc, di tản và định cư tại San Jose, Nguyễn Quang Liêu, di tản sang Chicago sau tái định cư tại Westminster (Nam Cali), tôi di tản và định cư tại San Diego. Nguyễn Gia Lộc mất cách nay trên 10 năm tại San Jose và Đào Hữu Châu cũng mất cách đây 3 năm tại Montréal.
Dù tất cả sinh sống tại hải ngoại, nhưng chúng tôi không liên lạc được với Công, nhất là Định. Từ khi Công đi du học, tôi chỉ được gặp lại Phạm Chí Công có 3 lần. Lần đầu khi Công trở về thăm gia đình tại Sài Gòn, lần thứ hai khi vợ chồng Công đến San Diego cùng với nhóm bạn học Trưng Vương với vợ Công vào tháng 7 năm 2006. Tôi đến thăm vợ chồng Công tại tư gia ở Pháp vào tháng 5 năm 2009. Lần đó con trai tôi được làm fellowship 6 tháng tại Paris và trước khi về Mỹ cháu tổ chức đi thăm Mont Saint Michel và vùng Normandie. Tôi tháp tùng để vừa coi cảnh vừa trông 2 cháu nội. Trên đường trở về Paris chúng tôi ghé thăm vợ chồng Công và được mời ăn một bữa cơm thuần túy món ăn Việt Nam do chị Công nấu rất hợp khẩu vị. Lúc này Công đã về hưu được mấy năm, nhưng chị Công vẫn còn giảng dậy và khảo cứu về hóa học trong trường Đại học.
Riêng Nguyễn Ngọc Định, tôi chưa từng liên lạc được kể từ khi di tản. Cho đến tháng 3 năm 2012 lúc Định dự đám tang của Đào Hữu Châu ở Montréal , tôi mới liên lạc được bằng điện thư. Tháng 10 năm 2012 nhân cơ hội Định tháp tùng vợ đi thăm họ hàng nhà vợ tại Nam Cali nên tôi tổ chức một bữa hội ngộ tại nhà Nguyễn Trọng Thi để cho nhóm bạn B3 gặp vợ chồng Định. Thành phần tham dự gồm có các anh chị Đỗ Tiến Đức, Nguyễn Mậu Lâm, Nguyễn Trọng Thi, Nguyễn Đắc Điều và các anh Hoàng Mai Chào, Vũ Hữu San, Nguyễn Ngọc Quyên, Lê Nguyên Thống, Phạm Thăng Bình, Trần Cường, và Nguyễn Quang Liêu. Trong buổi hội ngộ này Định tiết lộ Định có sở thích đóng đồ gỗ từ nôi nuôi con cho đến các bàn ghế tủ trong nhà, Định đều vẽ kiểu riêng và đóng lấy. Một chi tiết khá thích thú khác là gia đình Định là hậu duệ của Nguyễn Trãi vì khi thi hành án tru di tam tộc Nguyễn Trãi có một bà hầu thiếp đang có bầu trốn thoát được. Nguyễn Ngọc Định đã từng giữ chức vụ Viện trưởng viện Đại học Laval, Québec và nhờ uy tín của chức vụ này mà Định đã vận động xây dựng được tượng kỷ niệm Nguyễn Trãi đặt tại công viên Esplanade trong khu phố cổ của thành phố Québec. Tượng Nguyễn Trãi là pho tượng bán thân đầu đội mũ cánh chuồn bằng đồng đen đặt trên một bệ hình chữ nhật. Tiểu sử Nguyễn Trãi được khắc bằng chữ mầu vàng. Tôi có khuyến khích Định viết lại diễn tiến thực hiện công tác này, có lẽ vì bận làm giáo sư hướng dẫn cho một sinh viên hoàn thành luận án Tiến sĩ cuối cùng trước khi về hưu nên Định chưa viết chăng?
Tôi nghiệm ra rằng: các học sinh từ Chu Văn An-Bưởi, Chu Văn An-cửa Bắc, Chu Văn An-Trần Bình Trọng hay Chu Văn An-Minh Mạng đều có một mẫu số chung là học hết mình chơi hết cỡ; và cũng cố gắng mang hết tâm sức của mình trong những ngành nghề khác nhau để “Viết ngang trời ba chữ Chu Văn An”. Phải chăng, đó là tinh thần Chu Văn An?. Điều đó cũng giải thích được tại sao hai người không quen biết nhau trước, tuổi tác chênh lệch, mà chỉ cần tự giới thiệu “tôi là học sinh Chu Văn An” và sau cái bắt tay là đã tạo được bầu không khí thân mật như hai anh em ruột xa cách nhau lâu ngày nay mới được gặp.
Ngoài đội Vân Đồn, tôi còn quen thân một số học sinh khác. Anh Nguyễn Thượng Hiệp học lớp Ba ở trường hàng Than với tôi, sau cũng học Chu Văn An-Đỗ Hữu Vị từ Bắc cho tới Chu Văn An-Trần Bình Trọng trong Nam tuy khác lớp. Anh Hiệp là người đa tài, nhưng không gặp may trên đường đời. Song song với việc làm Đặc san Nhựa Sống, anh cũng làm một tờ Đặc san riêng cho lớp của anh in ronéo, trình bầy mầu rất bắt mắt. Anh có hoa tay vẽ hình trên giấy stancil để in bằng máy Gestener. Anh được cử sang Hội đàm Paris để làm công tác truyền thông. Nguyễn Thượng Hiệp và Trịnh Quang Vỹ cố gắng dùng tình bằng hữu để tiếp cận với Nguyễn Ngọc Giao, thông dịch viên của phái đoàn Mặt trận Giải phóng miền Nam, mà không thành công. Có thể cùng một thứ cam mà đem trồng ở hai nơi Sài Gòn-Paris khác nhau, nên tinh thần Chu Văn An không hiệu nghiệm chăng?
Khi Nguyễn Tấn Khang từ Canada sang chơi Nam Cali, tôi dẫn Khang đến thăm Hiệp, lúc anh còn nằm dưỡng bệnh tại nhà. Anh đã kể rất chi tiết bằng cách nào anh giúp một người bạn thân đậu bằng tiến sĩ quốc gia và anh đã may mắn di tản bằng tầu hải quân HQ1 Trần Hưng Đạo như thế nào vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, mà người có quyền thế lại không đi được. Chả là, Giám đốc Nha Nghiên Cứu của Phủ Trung Ương Tình báo Nguyễn Kim Thúy học cùng lớp đệ Nhất B1 với Hiệp, có người em rể là Hạm trưởng tầu HQ1. Hạm trưởng Hùng dẫn đầu đoàn xe gồm 4 chiếc chở gia đình anh vợ Thúy, Đốc sự Trần Đức Ái, và Nguyễn Thượng Hiệp vào bộ Tư lệnh Hải quân. Khi vào tới cột cờ Bộ Tư Lệnh, nhân viên Phủ Trung Ương Tình Báo đưa tin cho các anh Thúy và Ái có máy bay trực thăng đến đón trên nóc một ngôi nhà ở đường Nguyễn Hậu (gần tòa Đại sứ Mỹ) nên hai anh lái xe trở ra. Trung tá Hạm trưởng cũng quay xe về nhà đón gia đình. Anh Thúy và Ái chờ tại điểm hẹn cho đến sáng ngày 30 tháng 4 khi thấy không có máy bay đến đón mới chia tay. Sau một đêm dài chờ đợi không có kết quả, anh Thúy quá thất vọng nên không thiết tìm kiếm đường đi nữa. Chính vì vậy mà bị kẹt lại Sài Gòn, và sau anh chết trong trãi tù cải tạo ngoài Bắc vì bị đầu độc. Gia đình anh Ái di tản bằng tầu Trường Xuân vào phút chót tại bến kho 5 Khánh Hội. Khi Trung tá Hạm trưởng mang được gia đình đến cầu tầu đã than trời vì soái hạm Trần Hưng Đạo đã dời bến do Hạm phó được Thượng cấp chỉ định nắm quyền chỉ huy thay thế Hạm trưởng. Trung tá Hạm trưởng Hùng, sau đó trình diện học cải tạo trên 10 năm. Chỉ riêng gia đình anh Hiệp đậu xe lại tại cột cờ Bộ Tư Lệnh nên được di tản kịp thời theo tầu HQ1. Mọi sự có nên quy vào số mệnh và may mắn không !!!
Lê Văn Chỉ học Chu Văn An-cửa Bắc với tôi và năm 1954 đã tặng tôi tấm ảnh 4X6 làm kỷ niệm vì biết tôi không di cư. Vào đến Sài Gòn, tôi và Chỉ gặp nhau trong lớp đệ Tứ B3, nhưng năm sau Chỉ bỏ ra ngoài để học nhẩy. Năm 1956, Lê Văn Chỉ trở lại học đệ Nhất Chu Văn An trong khi chúng tôi đang học đệ Nhị. Khi Nguyễn Tấn Khang ứng cử Nghị viên Đô thành Sài Gòn đi vận động bầu cử trên đường Phan Đình Phùng gặp Chỉ lái xe hơi đi ngược chiều. Chỉ dừng xe lại, và nói với Khang : “Đáng lẽ tao phải đi vận động cho mày, nhưng vì tao bận quá, thôi mày cầm lấy 5 chục ngàn để nhờ các anh em khác dán bích chương và phát truyền đơn hộ tao”. Tôi thường gặp Lê Văn Chỉ tại một sòng bài ở San Diego và Chỉ cho biết, hiện nay không còn nhiều tiền như xưa, nhưng mỗi khi cần tiền thì lại có. Chỉ vừa cười vừa nói “ Có thể khi trước tao gửi tiền vào nhà băng nhân dân, nên nay mỗi khi cần tiền thì nhân dân lại phát lại”. Năm 2014, tôi có tổ chức một bữa cơm hội ngộ gồm một số bạn B3 tại nhà Nguyễn Trọng Thi mục đich chính là để chào đón Lê Văn Chỉ. Chỉ hứa nhất định tới dự, nhưng vào phút chót Chỉ lấy cớ kẹt xe không thể tới được. Một con chim đang bay dần khỏi đàn !!!
Thời gian trôi nhanh theo ngày tháng, năm 2014, giáo sư Nguyễn Văn Phú quy tiên tại Montréal , nhóm B3 có Phân Ưu cùng Nguyễn Ngọc Định và tang quyến. Đến tháng 12, 2014 Đinh Tiến Dũng chuyển tôi điện thư của Dũng phân ưu với gia đình giáo sư Nguyễn Văn Phú đồng thời muốn tìm kiếm tin tức của người bạn Nguyễn Ngọc Định đã mất liên lạc từ lúc Định đi du học Canada. Tôi quen Đinh Tiến Dũng, em ruột hề Thanh Hoài và bố của ca sĩ Diễm Liên, khi phục vụ trên Đà Lạt. Thời đó Dũng đang làm Phó Trưởng ty An Ninh quân đội, còn tôi làm Trưởng ty Hành chánh Thị xã Đà Lạt/Tuyên Đức. Thuở tôi cộng tác viết trang Học sinh cho báo Tự Do, thì ít lâu sau, báo Ngôn Luận cũng có trang Học Sinh do một nhóm học sinh phụ trách. Một số đó là: Đinh Tiến Dũng bút danh Đinh Lang và Đinh Bù Loong, Phạm Thị Lệ Mai sau này là ca sĩ Khánh Ly, Phạm Nga bút danh Bích Huyền, Lê Đình Điểu bút danh Y Dịch, Ngô Thế Phương bút danh Hoài Ngô, Ngọc Hoài Phương…Theo Đinh Tiến Dũng thì ngày Nguyễn Ngọc Định đi du học, Lê Đình Điểu, Ngô Thế Phương và Đinh Tiến Dũng đã đến nhà thầy Nguyễn Văn Phú để rủ Định đi chơi Sở Thú. Khi về, 4 người lên lầu nhà thầy Phú để nói chuyện thêm. Lê Đình Điểu đã nẩy ra ý kiến dùng tờ giấy bạc 2 đồng mầu xanh dương của thời đệ Nhất VNCH được cả 4 người ký tên và Điểu ghi tên từng mảnh trước khi xé ra làm 4 mảnh và trao cho từng người. Mảnh của Dũng đã thất lạc khi vào trại cải tạo, lúc Dũng sang Mỹ theo diện HO5 thì Lê Đình Điểu đã qua đời (không biết Điểu có mang theo và gia đình còn giữ hay không), riêng giáo sư Ngô Thế Phương, hiện cư ngụ tại Sài Gòn, chắc còn giữ một mảnh.
Lúc vợ chồng Nguyễn Ngọc Định sang chơi Nam Cali tôi có rủ Nguyễn Hồng Tước, em họ Định và cũng là bạn học cùng đệ 58-65 Trưng Vương với vợ tôi, dự tiệc đón vợ chồng Định. Hồng Tước bận chuyện riêng không thể thu xếp tham dự được, nhưng Hồng Tước có ghé qua khách sạn nơi vợ chồng Định cư ngụ để chụp hình kỷ niệm. Đây cũng là lần đầu tiên Hồng Tước gặp lại Nguyễn Ngọc Định kể từ ngày Định đi du học. Đinh Tiến Dũng có quen biết Thanh Tước, Hồng Tước và cô em út Hà Tước nên khi Hồng Tước chuyển hình chụp chung với Định, thì Dũng nhận diện ra ngay Định, dù sau 55 năm xa cách, nhưng Nguyễn Ngọc Định thì không nhớ nổi một tên nào trong 3 người mà Dũng nêu ra. Định chỉ nhớ chi tiết có đi chơi Sở Thú với đội Vân Đồn và có ký tên trên một tờ giấy bạc mà Định đinh ninh là của đội Vân Đồn. Nguyễn Quang Liêu và tôi không nhớ đội Vân Đồn có ký tên trên tờ giấy bạc, mà nếu có ký tên thì đội tôi có 8 người chứ không phải là 4.
Trong một điện thư khác Nguyễn Ngọc Định xác nhận: chắc chắn Định còn giữ một phần tư tờ giấy bạc và cất cùng với tờ Cáo Phó tử trận của Trung úy Trần Ngọc Thiều do tôi gửi cho Định nhưng hiện nay 2 tờ giấy này để ở đâu, Định chưa biết. Định hứa khi kiếm ra sẽ cho tôi biết. Đinh Tiến Dũng vẫn còn ấm ức, làm sao anh Định quên được Lê Đình Điểu và Ngô Thế Phương vì 2 tên này quen Định trước, còn Dũng quen Định qua 2 tên này.
Giông bão có thể tàn phá trơ trụi tất cả đền đài miếu mạo, nhưng kỷ niệm như những sợi cước vẫn còn vương vấn cuốn chằng chịt bay trong không gian nối liền người này với người kia, có chăng chỉ mất dần đi vài sợi vì tuổi già qua năm tháng.
Cuộc tìm gặp trường cũ, bạn xưa mới bắt đầu nhưng chưa tới hồi kết thúc.
NGUYỄN ĐẮC ĐIỀU
