NHÌN ÁP HUYẾT 2 TAY, 2 CHÂN, BIẾT NGAY NGUYÊN NHÂN GÂY RA NH

Nơi giúp đỡ lẫn nhau trau giồi kiến thức.

NHÌN ÁP HUYẾT 2 TAY, 2 CHÂN, BIẾT NGAY NGUYÊN NHÂN GÂY RA NH

Gửi bàigửi bởi admin » Thứ 6 Tháng 1 25, 2019 9:49 pm

NHÌN ÁP HUYẾT 2 TAY, 2 CHÂN, BIẾT NGAY NGUYÊN NHÂN GÂY RA NHỮNG BỆNH GÌ VÀ CÁCH CHỮA RA SAO MỚI LÀ CHỮA ĐÚNG


I-QUY ƯỚC SỬ DỤNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT TRONG ĐÔNG Y THAY CHO BẮT MẠCH

Máy đo áp huyết của tây y áp dụng trong đông y để đo Khí Lưc/ Lượng thức ăn đo bên tay trái hay lượng máu mỡ đường bên tay phải/nhịp mạch chỉ hàn hay nhiệt lệ thuộc vào đường

Quy ước này cũng giống như một định đề khác với tây y dùng để đo áp huyết tim mạch, nếu các vị tây y không chấp nhận cách ứng dụng máy móc y khoa theo cách chữa bệnh của đông y, không nên phản đối sẽ lòi cái ngu dốt mang danh bác sĩ của mình cho người khác biết tên tuổi của mình trên mạng thì không hay cho tương lai của mình về sau, vì chỉ lý luận máy bơm máu động mạch từ tim ra và máu theo tĩnh mạch vế tim, thì không giải thích được, hiên nay có trung tâm đặc biệt của tây y ứng dụng theo pp Khí Công Y Đạo, chế ra 4 máy đo cùng 1 lúc ở 2 bắp tay và 2 cổ chân trong để tìm bệnh khí, huyết tạng phủ hư thực, hàn, nhiệt, nếu giải thích chỉ là máu từ tim ra và về tim có 4 kết qủa khác nhau cùng 1 lúc thì chúng ta có 4 quả tim sao ? Thôi, không biết thì dựa cột mà nghe vậy, còn không thích thì đừng phê bình tầm bậy, chỉ cần kết quả chữa bệnh đúng sau khi luận bệnh bằng máy đo áp huyết.

Theo ngũ hành tương sinh của đông y, khi một tạng phủ bệnh, thì có ảnh hưởng Mẹ-Con theo ngũ hành :
Tim với Thận là 2 hành chính trong ngũ hành, thuộc hỏa và thủy như sức nóng mặt trời và sức lạnh của nước biển, tạo ra ngày đêm và thủy triều lên, nước dâng cao khi thủy mạnh, hỏa yếu lúc về chiều.
Còn khi thủy triều xuống làm nước cạn là lúc nước bốc hơi khi hỏa tăng tối đa, sức nóng mặt trời tăng.

Trong con người cũng vậy : Tim tạo sức nóng, Thận là nước điều hòa thân nhiệt, không nóng không lạnh, đông y gọi là sự khí hóa, điều hòa của tâm-thận.

Tính từ tim là tâm hỏa, hỏa sinh thổ là tỳ vị nuôi ấm bao tử chuyển hóa thức ăn, còn tỳ là tụy tạng chuyển chất bổ của thức ăn thành máu.
Do đó khi tây y đo áp huyết của tim thấp thì bao tử không đủ khí lực tiêu hóa thức ăn thành máu, nên máy đo áp huyết trước khi ăn và sau khi ăn áp huyết bao tử không tăng thì sự khí hóa thức ăn không có, tây y không để ý tại sao máu bơm từ động mạch tim đi ra và khi đưa máu về tim phải khác nhau trước khi ăn và sau khi ăn, trong khi tây y chỉ biết là áp huyết tốt hay không tốt, hễ cao hơn tiêu chuẩn thì cho uống thuốc hạ áp huyết, còn uống thuốc cho hạ nữa càng tốt không sao, cứ uống thuốc suốt đời đi, làm cho mất lực khí hóa của tâm hỏa nuôi chức năng co bóp của cơ bao tử làm ra bệnh bao tử, và mất chức năng điều hòa thân nhiệt của tâm-thận, nên người lạnh, tiểu nhiều, máu, mỡ đóng cục đông trên não hay động mạch vành thì bị đột qụỵ.
Bác sĩ nào càng tranh cãi phê bình đông y không biết ý nghĩa máy đo áp huyết theo giải thích của tây y thì lòi ra cái dốt không biết gì về áp huyết thay đổi trước và sau bữa ăn là sự khí hóa của đông y làm thay đổi áp huyết thuận hay nghịch, tốt hay xấu, gây ra bệnh gì... mặc dù 2 lần đo áp huyết theo tây y là tốt, nhưng không hiểu rõ số tâm trương của áp huyết là ăn đúng hay sai, máu đù, hay tăng lượng máu khi ăn những thức ăn bổ máu như lầu đồ biển, hay làm giảm mất lượng máu khi ăn canh chua, còn do đường đủ hay thiếu, hay ăn thức ăn có tính tăng nhiệt làm tăng nhịp tim hay còn thiếu đường hay ăn những thức ăn có tính mát như đậu xanh, khổ qua, hạt sen....làm hạ thấp nhịp tim.

Chúng tôi nhắc lại máy đo áp huyết để đo tim mạch hoàn toàn khác cách dùng máy đo tình trạng khí huyết hư hay thực, hàn hay nhiệt trước và sau khi ăn theo pp Khí Công Y Đạo để tìm ra chức năng khí hóa tốt xấu, khỏe hay bệnh của đông y hoàn toàn khác với tây y.

Kết qủa 3 số đo áp huyết của tây y theo thứ tự là :
Tâm thu/tâm trương/nhịp tim, chỉ đo 1 bên tay, thường đo bên tay trái, ít khi đo bên tay phải, và thường không để ý có sự khác biệt khi kết quả 2 tay có con số khác nhau, đối với tây y không cần thiết, chỉ cần xem áp huyết có cao thường xuyên không thì cho là bệnh cao áp huyết phải uống thuốc hạ áp huyết suốt đời.

Đối với đông y khác hẳn :
Đo áp huyết bên tay trái để biết : Khí lực/lượng thức ăn/nhịp mạch chỉ hàn hay nhiệt
Đo áp huyết bên tay phải để biết : Khí lực/ lượng máu/nhịp mạch hàn hay nhiệt
Đo cổ chân trong trên mắt cá trong, chân phải là khám bệnh của thận phải, chân trái là khám bệnh của thận trái có nghĩa là :
Khí lực chân, phải cao hơn tay 10mmHg /lương máu và nước xuống chân/nhịp mạch chỉ chân nóng hay lạnh .
Thí dụ áp huyết đo 2 tay theo tiêu chuẩn tuổi lão niên, trên 60 tuổi :
130-140/80-90mmHg nhịp mạch 70-80
Têu chuẩn áp huyết đo 2 cổ chân trong , trên mắt cá, chỉ có tâm thu tăng 10mmHg, như :
140-150/80-90mmHg nhịp mạch 70-80
Đông y không gọi là nhịp tim, mà gọi là nhịp mạch vì đo 2 tay và 2 chân có nhịp mạch khác nhau, còn nhịp tim thì có 1 quả tim thì nhịp tim phải giống nhau, nhưng trên thực tế khác nhau.



II-PHÂN TÍCH ÁP HUYẾT TÌM NGUYÊN NHÂN GỐC BỆNH.

Đông y nhờ phương tiên dụng cụ hiện đại của y khoa đem ứng dụng thay cho bắt mạch sẽ chính xác bằng con số.

A-Phân tích tìm nguyên nhân gốc bệnh bằng máy đo áp huyết trước và sau khi ăn :

Mục đích tìm sự khí hóa là sự sinh hóa là sự tiêu hóa thức ăn, và chuyển hóa là biến đổi dưỡng trấp của thức ăn thành máu.

1-Ý nghĩa số tâm thu đo trên 2 tay, gọi là khí lực co bóp, thuộc KHÍ, đông y gọi là dương khí.

Có 2 loại bệnh không lọt vào tiêu chuẩn tuổi :

a-Số tâm thu systolic cao hơn tiêu chuẩn tuổi :

Cao hơn tiêu chuẩn tuổi gọi lả khí THỰC, nghĩa là dư thừa. mạnh hơn tiêu chuẩn, ý nghĩa này thay cho cách bắt mạch của đông y gọi là mạch PHÙ, cao hơn nhiều gọi là mạch phù đại
Thí dụ như dư khí lực, cao hơn 140 như 150, 160, 170, 180, 190, 200... tây y gọi là bệnh cao áp huyết hypertension, high blood pressure

b-Số tâm thu systolic thấp hơn tiêu chuẩn tuổi :

Thấp hơn tiêu chuẩn dưới 130 gọi là khí HƯ, nghĩa là yếu, thiếu khí lực so với tiêu chuẩn tuổi, ý nghĩa này thay cho cách bắt mạch của đông y gọi là mạch TRẦM, có 2 loại mạch trầm có lực. Gọi là trầm thực, như áp huyết tâm thu xuống thấp còn 90-100mmHg, so với tiêu chuẩn tốt 130-140mmHg. Còn thấp hơn nữa người không còn sức lực, thiếu oxy, thở khó, số tâm thu thấp nhiều nữa như dưới 80-70mmHg gọi là trầm hư.

Thấp hơn tiêu chuẩn tuổi gọi là khí HƯ, thấp như 120, 110, 100, 90, 80, 70 là chết, nghĩa là thiếu khí lực ít hay nhiều, yếu hơn tiêu chuẩn, đông y gọi là mạch TRẦM, thấp hơn mà còn có lực gọi là trầm thực, số tâm thu khoảng 90-100mmHg, thấp dưới 90mmHg là trầm hư, không còn sức lực, gọi là vô lực. Theo tây y là bệnh áp huyết thấp hypotension hay low blood pressure. Như vậy uống thuốc hạ áp huyết suốt đời là sai, mất quân bình âm dương khi xuống đến 70 thì chết.

Nhưng tây y làm như nhân đạo bắt bệnh nhân uống thuốc hạ áp huyết suốt đời để đừng bị cao áp huyết mà càng thấp càng tốt, nhưng có biết đâu càng xuống thấp càng gây ra biến chứng khác càng cho thêm nhiều thuốc khác, áp huyết ung thư đang chờ sẵn khi áp huyết tụt thấp 80/60mmHg nhịp tim quá thấp ngưởi lạnh, như dưới 55 làm máu đông, hay nhịp tim quá cao như 120 mà trong người nóng khô môi nứt lưỡi da khô, nhưng ngoài da vẫn lạnh phải mặc áo lạnh là do thiếu máu trầm trọng, đông y có tên bệnh là âm hư nội nhiệt, không đủ máu tuàn hoàn lên não gây bệnh hôn mê thành người thực vật, hay bị ung thư, thử hỏi tây y ngày náy khác ngày xưa, không phải cứu người mà hại người bị nhiều bệnh hơn do uống nhiều thuốc gây ra nhiều phản ứng phụ trái nghịch nhau, là điều hiển nhiên, nhưng ít người biết, khi dùng thuốc áp huyết xuống quá thấp cả 3 số thì chân tay đau nhức thấp khớp, phải uống thuốc trị đau nhức thấp khớp làm tăng tuần hoàn máu, tăng nhiệt, lại làm tăng áp huyết, uống thuốc hạ áp huyết thấp quá lại bị đau nhức thấp khớp, nhưng nếu biết cách dùng thuốc theo đông y quân bình âm dương, khi áp huyết xuống lọt vào tiêu chuẩn tuổi thì ngưng, sẽ không bị phản ứng phụ do áp huyết xuống quá thấp nên phải uống thuốc trị đau nhức.
Tóm lại theo tây y cứ uống thuốc chữa bệnh và tiếp tục uống suốt đời để ngừa bệnh, nên không chú ý đến quân bình âm dương để khòi bệnh.

Tôi thường nói với các bác sĩ bạn bè một thí dụ, khi uống thuốc áp huyết cao đã trở lại bình thường hết bệnh thì ngưng, tại sao phải uống thuốc tiếp tục để ngừa bệnh. Nếu như các anh có bệnh đau bụng, tôi cho uống thuốc khỏi đau bụng rồi dặn các anh uống tiếp tục cho đến suốt đời để ngừa bệnh đau bụng thì có lý không. Dĩ nhiên là không, nhưng các bạn còn ngụy biện, bệnh đau bụng khác không nguy hiểm bằng bệnh cao áp huyết, ngưng thuốc áp huyết sẽ tăng vọt, cái này cũng chỉ là ngụy biện. Thí dụ áp huyết của tôi cao 160mmHg, uống thuốc hạ áp huyết đã xuống 120mmHg, khi tôi ngưng 1 ngày không thể nào áp huyết tăng vọt lên ngay 160mmHg mà tăng từ từ từng ngày, khi lên cao đến 140mmHg tôi mới uống thuốc làm nó hạ xuống 130mmHg... ngược lại uống thuốc áp huyết mà không xuống là tại thuốc không công hiệu, chỉ muốn cầm giữ nuôi bệnh, thì thuốc có vấn đề ?

c-Một sai lầm tây y ít để ý đến áp huyết đo bên tay phải quan trọng hơn tay trái.

Khi bệnh nhân cao áp huyết, đang dùng thuốc hạ áp huyết, đo bên tay trái vẫn có kết quả thấp, theo tây y là tốt, nhưng bệnh nhân vẫn bị tai biến stroke, vì áp huyết bên tay trái càng thấp thì bên tay phải lại cao mà không biết, lý do tại thuốc giãn mạch.
Trên nguyên tắc, thuốc giãn mạch thì tất cả các ống mạch trong cơ thể phải giãn để máu lưu thông dễ không bị tắc nghẽn, thí dụ thể tích ống mạch chứa được 1 lít máu với lực bơm máu gọi là khí lực bình thường 130, khi lực bơm máu cao 180, máu dồn vào ống mạch 1,5 lít thỉ ống mạch sẽ vỡ, do đó phải dùng thuốc giãn mạch cho ống mạch đủ sức giãn nở, như vậy tất cả các ống mạch dẫn máu trong cơ thể đều giãn, thì có kết qu3a trông thấy áp lực khí bên tay trái giảm tốt, nhưng có hậu quả ống mạch bơm máu vào bộ sinh dục yếu nên bất lực về tình dục, diến tiến tiếp theo là giãn tĩnh mạch đưa máu vể tim, nên bị hở van tim, lượng máu về tim ít, giống như chúng ta uống nước bằng ống hút nhỏ thì nó hút nước vào miệng ngay, còn giãn mạch là ống hút càng, hút nước phải lực mạnh máu mới về tim, khi khí lực hút mạnh, làm tăng áp huyết bên tay phải cao thường xuyên thì rơi vào tình trạng tai biến là lẽ tất nhiên, theo đông y áp huyết bên phải khí lực cao là lực co bóp của gan bơm nhiều máu lên tim cao, vì gan chứa lượng máu nhiều nhất trong cơ thể, đông y gọi là gan tàng huyết, và gan cũng chứa nhiều mỡ cũng dễ làm nghẹt tim, nhổi máu cơ tim gây đột quỵ, gan cũng làm thay đổi tính tình, khi nóng giận tột độ, đông y có câu giận bầm gan, tím mặt, là gan co bóp tối đa gân cơ co rút, đưa hết lương máu vào dồn tim, tim ngưng đâp té ngã chết ngay.

Trường hợp đang dùng thuốc hạ áp huyết, áp huyết bên tay trái xuống thấp, nếu có chết bất đắc kỳ tử là do ăn quá nhiều, bội thực, không tiêu bao tử căng đầy khó thở do khí lực tăng ép tim, không có lối thoát, đã có phản ứng của cơ thể tự động nôn ói thức ăn ra, thì còn chữa kịp bằng cách cho ói thức ăn ra kịp bằng cách cho xổ, áp huyết xuống thấp trở lại bình thường, không nguy hiểm ba72ng áp huyết đo bên tay phải cao mà không biết, đối với bác sĩ tưởng tay nào cũng giống nhau.

d-Ý nghĩa số tâm thu đo trên mắt cá cổ chân trong :

Tiêu chuẩn áp huyết dưới chân tuổi lão niên trên 60 tuổi :
140-150/80-90mmHg nhịp mạch 70-80

Khí lực 140-150mmHg chỉ khí lực của 2 quả thận, chân trái thuộc thận trái, khí lực chân phải thuộc thận phải.
Cao hơn 150mmHg, như 160, 170, 180, 190, 200, 210, 220..không phải là áp huyết tim, nên không chết, nó mang ý nghĩa, thể tích thận to nguyên nhân do khí xuống chân bị tắc nghẽn ở động mạch háng do uống nước quá nhiều, sẽ nhìn thấy vị trí qủa thận sau lưng nổi cao, ấn đè mềm, không đau là thận ứ nước, ấn đè đau nhói là có sạn trong thận, ấn đè cứng đau nơi ấn đè nhưng dau đốt sống lưng do thận cứng to làm nghiêng lệch đốt sống lưng khiến đau lưng và làm chân thấp chân cao.
Còn do nguyên nhân khác sau khi ăn, uống, ngồi nhiều, bụng to, nhiều mỡ bụng đè nặng động mạch háng, gây ra bệnh chèn ép khí huyết xuống chân, đẻ vào tuyến tiền liệt làm sưng tuyến tiền liệt bí tiểu.
Áp huyết bên chân nào khí lực cao là thể tích thân bên đó to, bên nào khí lực thấp thì thể tích thận bên đó nhỏ, hai bên thận thể tích không đều cũng làm lệch cột sống lưng, còn đã cắt bỏ một bên thận thì thận còn lại thể tích sẽ to để làm việc gấp đôi thay cho thận đã cắt bỏ, thì bên thận đã cắt khí lực thấp hơn và số không thay đổi, chứ không phải không có số tâm thu, vì còn ảnh hưởng đến khí lực của chân, dĩ nhiên chân bên thận đã cắt bỏ sẽ yếu hơn bên chân còn quả thận.

d-Suy thận :

Tây y tính theo tổng số nước từ thức , nước uống, sẽ bù vào số nước tiểu thoát ra, có công thức tính như sau :
Thận làm việc không ngưng nghỉ mỗi giờ máu và nước qua thận lọc là 6 lít, thận chắt ra được 1cc nước tiểu, trong 24 giờ được 24cc nước tiểu, nhân với cân nặng của cơ thể thí dụ cân nặng 100kg thì nước tiểu ra mỗi ngày 2,4 lít, người nặng 50kg, nước tiểu ra mỗi ngày 1,2 lít, đúng tiêu chuẩn này thì trời cho quả thận sống thọ tối đa bằng tuổi người 100 tuổi, ai uống nước nhiều hơn gấp đôi, thận lọc nhiều hơn thì tuổi thọ giảm 1/2, đến 50 tuổi thận nghỉ hưu, con người muốn sống thêm thì phải chạy thận nhân tạo, đeo túi nước tiểu ngang hông hay phải mặc tã lót là do mình tự chọn, cách nào đúng, cách nào sai, thời gian sẽ trả lời sự thật không cần tranh cãi lý luận vô bổ.
Như vậy uống nhiều nước tiểu ra ít thì người sưng phù, tùy theo nước tiều ra ít bao nhiêu thì gọi là suy thận độ 1,2,3,4..suy thận càng cao, thì cặn bẩn trong thận ứ lại càng nhiều, được tây y thử cặn bẩn creatinine càng cao thì càng phải lọc thận, thay thận. Nếu không suy thận nặng sẽ rơi vào hôn mê đến tử vong.

2-Ý nghĩa số tâm trương, gọi là huyết lực, thuộc HUYẾT. Đông y gọi là âm huyết.

Số thứ hai tâm trương diastolic đo 2 bên tay có 2 ý nghĩa khác nhau :

Ý nghĩa tổng quát :
So với tuổi lão niên trung bình tâm trương trong khoảng 80-90mmHg là tốt.

a-Đo bên tay trái thuộc bao tử :

Đông y gọi là lượng thức ăn, khi đói phải thấp 80, khi no phải cao 90mmHg
Nếu cao hơn 90 như là 100, 110, 120 là THỰC, và thực đại, đo bên tay trái là lượng thức ăn nhiều, đầy trong bao tử. Khi thực đại sẽ bị ngăn nghẹn ngưc, tức ngực khó thở, trào ngược thực quản.
Nếu thường xuyên cao do thức ăn không tiêu, nhất là khi đói, tâm trương vẫn cao như khi no là thức ăn cũ trong bao tử không tiêu, luôn bị trào ngược thực quản, ói ra nước chua, đắng, ấn đẻ bao tử dau là bao tử có bệnh.
Phân biệt dấu hiệu không bệnh và bệnh :
Sau khi vừa ăn no, dùng các ngón tay ấn đè vào giữa bụng, chính xác giữa bao tử nàm ngay huyệt Trung Quản, là điểm giữa tính từ mỏm xương ức đến rốn.
Ấn đè sâu lõm vào bụng 5cm không đau là bao tủ khỏe, không bệnh.
Ấn sâu 4cm đau là bệnh bao tử yếu khó tiêu
Ấn sâu 3cm đau là bệnh bao tử bị nặng hơn
Ấn sâu 2cm bệnh bao tử ăn không tiêu thức ăn không chứa nổi
Ấn sâu 1cm đau nhiều là đã loét bao tử, để lâu sẽ bị ung thư bao tử.

Nếu thấp hơn 80 là thiếu thức ăn, đông y gọi là HƯ, không có nghĩa là hư hỏng, mà thức ăn chưa đủ no, đầy trong bao tử.

Chức năng bao tử tốt thuận theo thời gian sinh học, khi đói, tâm trương thấp 80 hay thấp hơn chút ít, khi ăn no phải cao.
Ngược lại, khi đói mà tâm trương cao trên 90 có nghĩa thức ăn cũ còn trong bao tử chưa tiêu hóa hết, thì không cảm thấy đói không muốn ăn thêm nữa, cũng làm cho bao tử bị bệnh, nhất là người bỏ một bữa ăn hay nhịn ăn, cơ thề sẽ bị tụt thấp đường là suy yếu cơ co bóp bao tử sẽ bị liệt cơ co bóp dẫn đến thức ăn trong bao tử không chuyển hóa thành thức ăn thối như thức ăn chứa trong thùng rác, dẫn đến ợ chua, hôi miệng, loét bao tử cuối cùng là ung thư bao tử.

b-Đo bên tay phải thuộc gan :

Đo bên tay phải không phải là đo lượng thức ăn mà đo lượng máu trong gan, có 2 ý nghĩa trong số tiêu chuẩn cho phép trong hạn tuổi, phải từ 80-90mmHg
Đo tay phải khi đói phải 80 là lượng máu chứa có sẵn trong gan, khi no phài 90 là do thức ăn bên tay trái có chất bổ máu đã được chuyển thành máu sang gan thì khi lần đói kế tiếp tâm thu bên tay trái phải xuống thấp.

Bệnh lý huyết thực, huyết hư :
Nếu khi trước bữa ăn kế tiếp, tâm trương còn cao là thức ăn cũ còn trong bao từ, nếu thấp xuống nhiều còn 60, 70 là bụng đói nhiều, nhưng số tâm trương bên bao tử mất đi mà tâm trương bên gan không tăng cao hơn từ 80 lên 90, có nghĩa trong thức ăn không có chất bổ máu, ngược lại, nếu làm tâm trương tay phải tụt thấp hơn tiêu chuẩn là làm gan mất máu thêm, là thức ăn sai, có tính chất phá máu làm thiếu lượng máu khi đo bên tay phải gọi là huyết HỰ hay thiếu máu.
Còn tâm trương bên tay phải lúc nào cũng cao hơn tiêu chuẩn là gan dư máu dư mỡ, gọi là cao máu, cao mỡ, chứa nhiều trong gan làm cứng gan, đông y gọi là huyết THỰC.

3-Ý nghĩa số thứ ba nhịp tim, đông y gọi lả mạch HÀN hay NHIỆT.

Theo áp huyết tiêu chuẩn tuổi lão niên
130-140/80-90mmHg nhịp mạch 70-80\

Nếu cao hơn tiêu chuẩn, trên 80 như là 90, 100, 110, 120...là nhiệt, đông y gọi là mạch SÁC hay mạch nhiệt.
Nếu thấp hơn tiêu chuẩn 70, như là 60, 50 là hàn, đông y gọi là mạch TRÌ hay mạch hàn

a-Dấu hiệu áp huyết chỉ bệnh bao tử nhiệt :
Nếu đo bên bao tử, cao hơn 80 là do thức ăn có tính nhiệt như do ăn gừng, ớt, tiêu, sầu riêng, xoài, nhãn, bún huế...
Khi bao tử nhiệt làm cho con của bao tử là phổi theo ngũ hành tương sinh, khiến phổi nóng khô, da khô, ho khan, hay khát đòi uống nước.
Thí dụ áp huyết bình thường 2 số đầu, trừ số thứ ba mạch quá cao như .
130-140,80=90mmHg mạch 90-110

b-Dấu hiệu áp huyết chỉ bệnh bao tử hàn :
Nếu đo bên bao tử thấp hơn 70 thì bao tử lạnh thì hay bị ngáp, buồn ngủ sau khi ăn. do ăn thức ăn lạnh, do thiếu đường, do ăn đậu xanh, hoa cúc, khổ qua...kết quả thức ăn sẽ không chuyển hóa thành máu, mà bị đau lạnh bụng, tiêu chảy., trẻ con thường bị giun sán trong bụng.
Khi bao tử hàn lạnh làm cho phổi cũng bị lạnh sẽ bị suyễn hàn, phổi phải tự bảo vệ làm hơi thở gấp cho tăng nhiệt trong phổi
Thí dụ áp huyết bình thường 2 số đầu, trừ số thứ ba mạch quá thấp như .
130-140,80=90mmHg mạch 50-60

c-Dấu hiệu áp huyết của bệnh chán ăn, không muốn ăn do thuốc trị áp huyết và thuốc hạ đường
Những bệnh nhân đang dùng thuốc trị áp huyết và thuốc trị tiều đường, kiêng đường mà đo đường huyết vẫn cao, nhưng nhịp tim càng thấp, theo đông y là bao từ hàn lạnh, có nhịp tim thấp dưới 70, tương xứng nhiệt kế đo trên đầu ngón tay út dưới 36 độ C, như 35 độ, 34 độ, 33 độ, 32 độ, là thấp hơn nửa, súng bắn nhiệt kế hiệu thermoflash không bắt được độ, chỉ low là thấp quá không đo được.
Nhiệt độ trong các bộ phận cơ thể, nơi cao nhất là bao tử cần 41 độ C để bao tử co bóp là thời gian sinh hóa làm chín thức ăn thành dưỡng trấp đề chuyển hóa thức ăn thành máu, nhiệt độ trong bụng giảm thấp bao nhiêu thì thức ăn không tiêu bấy nhiêu, sẽ đau bụng đi cầu ra phân sống sít có nghĩa là thức ăn không được bao tử nấu chín xay nhuyễn nhừ thành dưỡng trấp, nên khi đi tiêu chảy thì thấy phân toàn là nước lẫn thức ăn còn rau xanh, cà rốt hòn cục...
Tây y thì tìm ra nhiệt độ cao nhất trong cơ thể là bao tử, mục đích làm tiêu hóa thức ăn, ngược lại đông y tìm ra chất tăng nhiệt cho bao tử gọi là cơ quan tiêu hóa Tyỳ-Vị là tụy tạng và bao tử luôn luôn cẩn chất ngọt, mà chất ngọt nào phải có tính tăng nhiệt là đường cát vàng mà hiện nay chúng ta đang dùng, lại bị tây y cấm kỵ, do đó nhiệt độ bao tử càng thấp, thì nhịp tim càng thấp, quý vị nên theo dõi nhịp tim có liên quan gì đến thèm ăn và chán ăn, tiêu hóa tốt hay xấu, chúng ta sẽ thây ngay, trước khi ăn nhịp tim thấp như 60 thì ăn không tiêu, nhịp tim 50 thì chán ăn, sợ ăn, nhịp tim cao 80 thì ăn ngon, ăn nhiều tiêu hóa tốt.
Muốn làm nhịp tim tăng, làm bao tử tăng nhiệt độ để đói bụng thèm ăn, ăn ngon, ăn dược nhiều, và tiêu hóa tốt phải đủ 3 điều kiện :

-Uống đường cát vàng phải đủ theo tiêu chuẩn của Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, mỗi ngày 6-9 thìa đường. Chia làm 3 lần sáng, trưa, tối trước khi đi ngủ

-Nhiệt kế phải tăng theo tiêu chuẩn : đo trên ngón tay út thuộc tim, theo đông y là tâm hỏa, sinh nhiệt giúp con của tim là bao tử ấm nóng, nhiệt kế đo phải từ 36.5-37.5 độ C, là tương xứng với lượng đường mà cơ co bóp bao tử cần để chuyển hóa thức ăn, dù đo đường huyết cao hơn là trong đường huyết có phần đường dương, có phần đường âm, trước khi uống đường cát vàng phải để ý.
Đo đường huyết trước, thí dụ cao 300mg/dl, đo nhiệt kế trên đầu ngón tay út chỉ low, sau khi uống 4 thìa đường cát vàng, đo lại đường huyết thấy tụt thấp xuống 260mg/dl, nhiệt kế đầu ngón tay út tăng 32 độ C là uống đường đúng nhưng còn thiếu vì nhiệt kế trên ngón tay chưa đủ 36.5 đô C, uống tiếp thêm đường cho nhiệt kế đo trên ngón tay út tăng trên 36,5 độ C, lúc đó đo lại đường huyết xuống thấp thí dụ như còn 140mg/dl, là vừa đúng tiêu chuẩn đường huyết khi đói của Y Tế Thế Giới quy định năm 1979, chúng ta sẽ đói bụng thèm ăn, ăn ngon và ăn được nhiều.

-Nhịp tim phải tăng : Nhiều người không tin đường giúp cơ thể khỏe mạnh, không chịu uống đường mà lại siêng tập thể dục thể thao muốn làm tăng thân nhiệt, nhưng nhịp tim tăng giả tạo, sau khi ăn nhịp tim vẫn thấp dưới 60 là không có đường chuyển hóa thức ăn, lại rơi vào tình trạng bữa ăn sắp đến không biết đói vì thức ăn cũ trong bao tử còn, nếu ăn vào sẽ bị nôn ói.

Ngành y đang làm cho cả nhân loại kém sức khỏe dần, không bằng sức khỏe của những dân tộc sống tự nhiên không phải dùng thuốc.
Nếu chúng ta biết kết hợp làm ổn định nhịp tim trong tiêu chuẩn, vừa phải uống đủ đường vừa tập bài chuyển hóa đường làm tăng nhịp tim sẽ mạnh tim, bao tử và phồi là 3 hành trong ngũ hành thuộc mẹ-con, theo Hội Tim Mạch là làm mạnh tim, theo đông y tim mạnh làm bao tử mạnh vì hỏa sinh thổ, bao tử mạnh làm phổi mạnh vì thổ sinh kim.

Do đó đường rất quan trọng trong đông y, đủ đường nuôi tim giúp tim co bóp tuần hoàn máu đều không bị suy tim, giúp bao tử co bóp và đủ nhiệt độ giúp bao tử tiêu hóa thức ăn chuyển thành máu, phổi mạnh thì hơi thờ mạnh trao đổi nhiều oxy làm tăng hồng cầu, thiếu đường hơi thở yếu sẽ bị bệnh suyễn và dễ bị nhiễm cảm lạnh. Hệ thống miễn nhiễm phòng chống bệnh suy giảm, dễ bị lây nhiễm bệnh..

d-Dấu hiệu áp huyết giả tăng cao, nhịp tim thấp, do thiếu đường ăn không tiêu,

Những bệnh này chỉ xẩy ra với người bị xáo trộn áp huyết do thuốc trỉ cao áp huyết và thuốc hạ đường.
Nhịp tim luôn luôn thấp dưới 60, dù ăn ít mà cơ thể không đủ đường giúp bao tử co bóp chuyển hóa thức ăn. Trong đêm thức ăn không tiêu giữ lâu trong bao tử, làm tăng men gan sang bao tử thành ợ hơi, trào ngược thực quản, làm tăng tâm trương, gây đầy hơi, làm tăng khí lực tâm thu, cuối cùng áp huyết 2 số đầu tăng cao mà nhịp tim vẫn thấp, tình trạng ăn không tiêu, ợ hơi, trào ngược thực quản kéo dài gây ra bướu cổ là bướu hơi hay bướu mỡ.
Thí dụ như 150-170/95-110mmHg nhịp mạch 50-60

Cách chữa chỉ cần uống 1 ly nước chanh với 4 thìa đường, áp huyết tự nhiên xuống thấp mà nhịp tim tăng lên và người cảm thấy khỏe ngay, nhưng muốn phục hồi chức năng bao tử, phải uống thêm 4 thìa đường với chanh rồi tập bài Vỗ Tay 4 Nhịp 300 lần, áp huyết xuống thấp nữa và nhịp tim tăng lên đúng tiêu chuẩn.
Khi tâm trương cao trên 90, không được tập bài Lăn Người sẽ bị thức ăn hay nước trong bao tử trào lên cổ họng, nước lọt vào phế quản vào phổi gây ho sặc, thành hơi thở suyễn khò khè như có bọt có đàm, ngộp thở, hay nhiễm trùng phổi và tràn dịch màng phổi khi có số tâm trương cao.

e-Dấu hiệu áp huyết chỉ bệnh suyễn hàn, do phổi lạnh.

Theo đông y phổi là hành con của bao tử theo ngũ hành tương sinh, mẹ hàn thì con hàn, nếu áp huyết đo bên tay trái thuộc bao từ bị hàn lạnh, có nhiều trường hợp khác nhau tùy theo tâm thu, tâm trương và mạch :

-Mạch trì là mạch thấp dưới 65-60 thì hơi phổi lạnh, hơi thở yếu, thí dụ áp huyết 130-135/80-85mmHg mạch 60

-Mạch dưới 60, thêm tâm trương cao trên 90-100, do ăn không tiêu thì thở khò khè do thức ăn biến thành đàm, tây y gọi là cao cholesterol, còn tâm trương thấp gây ra hơi thở yếu, ngắn hơi như người ngộp hơi. Thí dụ có áp huyết như 130-135/90-100mm/Hg mạch 58

-Mạch dưới 60, tâm trương cao 90-100, thêm tâm thu cao trên 160mmHg thì suyễn có ho, hơi thở nhanh mạnh, thở hắt ra nhiều liên tục ngắn hơi hụt hơi, người ngoài nhận thấy tướng suyễn gật đầu xuống mà thở, tây y phải cho bệnh nhân dùng thuốc xịt giãn phế quản là chữa ngọn, lạm dụng thuốc này dẫn đến cấp tính người lạnh toát, mệt tim nhịp tim xuống thấp rơi vào hôn mê tim ngừng đập do thiếu đường, về lâu dài thuốc xịt làm tê lưỡi mất cảm giác, ăn thức ăn ngon trở thành như ăn cát sạn không mùi vị, làm hư bao tử trở thành ung thư bao tử.
Thí dụ có áp huyết như 160-180/90-100mmHg mạch 57

-Mạch dưới 60, tâm trương thấp dưới 60, tâm thu dưới 100mmHg thì bị thở suyễn ngắn hụt hơi phải hít hơi vào nhanh liên tục, người ngoài nhìn thấy tướng thở suyễn đông y gọi là ngước hất đầu lên thở.
Thí dụ có áp huyết như 90-100/55-60mmHg mạch 55

Tất cà các loại bệnh suyễn này chữa theo nguyên nhân gốc bệnh là phải bổ bao tử bằng đường làm tăng nhịp tim là chính, đường phục hồi chức năng co bóp cơ tim, thần kinh phế vị không bị co rút, rồi tập bài Vỗ Tay 4 Nhịp 300 lần, khi mệt phải uống thêm đường rồi tập tiếp để phục hồi chức năng nạp đủ khí oxy cho phổi, diều chỉnh lại van tim, và nhịp tim, giúp co bóp bao tử tăng nhiệt, làm xuất mồ hôi lạnh trong người, tăng thân nhiệt, tống hàn do thời tiết lạnh bên ngoài, tập mỗi ngày sẽ khỏi các loại bệnh suyễn.

f-Dấu hiệu áp huyết chỉ bệnh gan nhiệt :
Nếu đo bên gan có nhịp tim cao hơn 80 như 90, 100.. thì gọi là gan bị nhiệt, táo bón người nóng, tăng áp huyết, da thịt ngứa nổi mụn đầu mụn có mủ, mắt đỏ. Bề mặt lá gan nổi sần sùi, khi vuốt gan cảm thấy lộm cộm những mụn nhỏ như các bóng bóng nhỏ nổi phồng trên mặt bánh tráng, chúng vỡ nước ra nghe tiếng kêu, sau khi vuốt xong da mặt lá gan trơn mịn.
Gan chủ các gân sụn, móng tay chân, gân chân tay sẽ co rút đông y có tên hỏa thiêu cân. Phải ăn nhiều củ đậu, củ mã thầy, làm mát gan giải nhiệt giúp thư giãn gân bớt co rút, co quắp tay chân.

g-Dấu hiệu áp huyết chỉ bệnh gan hàn :
Nếu đo bên gan có nhịp tim thấp hơn tiêu chuẩn dưới 70, như 60, 50, gọi lả gan hàn, thì máu mỡ chứa trong gan bị đông lạnh, thường bị gan nhiễm mỡ, bị sạn gan và túi mật cứng đặc, máu không lên tim đủ làm suy tim.

Nếu nhịp tim bên bao tử bình thường mà nhịp tim bên gan lúc nào cũng thấp 55-60 và ấn đẻ vùng túi mật cứng đau là túi mật bị lạnh đông cứng không tiết mật thành bệnh sạn mật hay viêm ngã ba ống mật, có khi tây y gọi là ung thư.
Nhịp tim bên gan thấp 55-60, ấn vào vùng túi mật không đau là đã cắt túi mật, không phải là gan sẽ hết mật, mà mật vẫn có sẵn trong gan để điều hòa tiêu hóa vừa đủ, khi thức ăn được tạo ra mật dư thừa thì sẽ được dự trữ trong túi mật, còn khi cắt túi mật, ăn nhiều gan không cung cấp mật đủ thì không tiêu hết thức ăn, nên khi nuốn ăn nhiều phải uống thêm 1 viên thuốc mật làm từ mật heo, có bán trong tiệm thuốc tây và tiệm thuốc bắc.

h-Dấu hiệu áp huyết chỉ bệnh gan nhiệt giả hàn, hay chân nhiệt giả hàn :
Chân là bản chất thực của bệnh, giả là hiện tượng giả của bệnh.

Theo đông y, thương hàn luận, mạch giả hàn như vừa trầm vừa trì, ấn tay vào mạch thì nhanh nhưng mạch đập mạnh vào tay hoạt nhanh có lực, là dương cực độ giống như âm mà không phải hàn chứng
Căn cứ hàn nhiệt theo cách bắt mạch bằng máy đo áp huyết rất chính xác, như máy đo áp huyết chỉ nhịp tim quá cao trên 120-130 thì cơ thể rất nhiệt là chân nhiệt, nhưng ngoài da lạnh đông y bắt mạch là mạch trầm mà có lực, có nghĩa áp huyết cao hơn tiêu chuẩn là mạch phù, còn mạch trầm là tâm thu thấp hơn tiêu chuẩn, thấp dưới 100, hay 90, hay 80 cũng gọi lả trầm nhưng không còn sức lực gọi là vô lực, thì trường hợp trầm có lực là thì tâm thu khoảng 90-100, tâm trương cũng trầm có lực có nghĩa chưa bị mất máu nhiều còn sức thì tâm trương khoảng 60-65, như vậy bệnh nhiệt giả hàn sẽ có áp huyết như :
thí dụ khoảng 90-100/60-65mmHg nhịp tim 120-130,

, sốt rét dữ dột, sốt nhiệt bên trong xương tủy, rét run bên ngoài là giả vì không thích mặc áo, thì gọi là chân nhiệt giả hàn.

Nhưng phải có thêm dấu hiệu bệnh như trong thương hàn luận của đông y là chân nhiệt sốt nhiệt trong xương tủy vừa giả hàn rét lạnh run ngoài da nhưng không thích mặc áo ấm, lại khát nước thích uống nước, lưỡi có gai, rêu lưỡi vàng đen, môi khô, hơi thở thô, hôi miệng, táo bón, đi phân ra nhiều nước nóng rát hậu môn, tiểu ít nhưng nước tiểu đỏ, bụng căng cứng đè đau.

Theo dông y nếu bệnh chữa sai sẽ chết người ngay, nhưng biết cách chữa đối chứng trị liệu, là nhiệt giả hàn thì chữa thuốc phải là hàn nhưng giả nhiệt.
Chữa theo Y Học Bổ Sung, mạch cao là nhiệt cần thuốc mát lạnh, phải giải nhiệt là chanh, cho năng lượng là đường, giả nhiệt là pha nước nóng cho uống qua miệng bệnh nhân lại khen ấm quá, nhưng vào trong bụng sẽ lạnh mát chữa gan nhiệt, vì chất chua vào gan làm mát gan, sau đó tăng khí tâm thu bằng bài tập khí công làm tăng áp huyết cho dương khí thoát ra ngoài bằng mồ hôi nóng, thì khỏi.

i-Dấu hiệu áp huyết bệnh gan hàn giả nhiệt, gọi là chân hàn giả nhiệt :
Có 2 loại khác nhau, bên trong bụng hàn bên ngoài giả nhiệt, tên chuyên môn của đông y là hàn thủy vũ thổ, hay lý hàn, biểu nhiệt hoặc chứng cách dương
Loại khác là bên dưới người thì hàn bên trên người giả nhiệt, tên chuyên môn của đông y là thủy khí lăng tâm, hay âm kiệt ở dưới, dương vượt lên trên, hoặc chứng đái dương.

Mạch của bệnh giả nhiệt như vừa phù vừa sác, ấn tay vào mạch cổ tay không có cảm giác mạch đập mạnh vào ngón tay, ấn tay xuống không có gì, là âm thịnh cách dương không phải nhiệt chứng mà giả nhiệt.

Bệnh hàn thủy vũ thổ :

Đông y gọi là chứng hỏa vô căn, nhưng bệnh trong lý là chân hàn, ở biểu là ngoài da giả nhiệt.
Giải thích theo khí hóa ngũ hành của đông y, thủy thuộc thận là mẹ của gan, trên nguyên tắc vòng tương sinh thì thủy nuôi mộc là thận nuôi gan, với điều kiện thủy mạnh khỏe, còn khi thủy bệnh thì nhiều nước không truyền bệnh sang con được sẽ làm con bệnh lại truyền nước hại tim, là thủy hại hỏa, nên đưa nước quá dư thừa vào bao tử làm cho bụng lạnh tiêu chảy thoát ra nhiều nước gọi là thủy vũ thổ, nên có dấu hiệu đau bụng thổ tả, tay chân quyết nghịch, mồ hôi lạnh tự chảy ra, cơ thịt giãn, gân run, tiếng nói yếu, ăn ít, bụng đầy, hai chân càng lạnh, tiểu tiện trong trắng, chất lưỡi mềm bệu, rêu lưỡi đen mà trơn, màu đen chỉ thấy ở giữa lưỡi.
Mạch trầm vi, là mạch chạy quá nhỏ như muốn tuyệt, là chứng của chân hàn ở bên trong gọi là lý, còn ở ngoài da đông y gọi là ngoài biểu sờ vào da khô nóng dữ dội, khát không dám uống nước, miệng khô đau họng, âm thịnh bên, lạnh trong xương tủy là chân hàn trong lý, đẩy dương ra ngoài biểu giả nhiệt, lại muốn mặc áo.
Thí dụ áp huyết như 80-90mmHg là khí lực trầm, huyết quá ít ấn đè mạch không thấy huyết lực 45-50mmHg mạch hàn 45-50, (80-90/45-50mmHg mạch 40-50)
Nhìn mạch áp huyết là khí hư, máu thiếu âm hư nội nhiệt, nhưng ít hơn mạch hàn lạnh nhiều hơn.
Cách chữa theo đông y thì rất khó chữa lầm bệnh nhân chết ngay trở thành cực hàn hay cực nhiệt.
Còn chữa theo Y Học Bổ Sung dựa theo áp huyết phải vừa bổ máu nhanh bằng bột protein loại sport pha nhiều đường và tập bài tăng áp huyết để chuyển hóa protein thành máu, và uống thêm nhiều đường làm tăng nhịp tim, tập bài làm tăng áp huyết cả 3 số là bài Hất gối lên ngực cùng lúc 2 tay vỗ lên trời , uống nhiều lần tập nhiều lần trong ngày :
https://www.youtube.com/watch?v=mH1DkNApaUg

Chứng thủy khí lăng tâm :

Đông y cũng gọi là chứng hỏa vô căn, bệnh bên dưới là chân hư hàn, bên trên là giả nhiệt hay gọi là âm kiệt ở dưới, dương vượt lên trên, gọi là chứng đái dương.
Có dấu hiệu bệnh nhịp tim nhanh, bên dưới chân lạnh, nước tiểu trong, tiêu chảy, bên trên có dấu hiệu như suyễn hơi thở ngắn gấp, váng đầu hoa mắt, thiếu hơi, ít nói nói đứt quãng, rêu lưỡi đen đến tận đẩu lưỡi mà lưỡi mềm là chân hư hàn trong lý, nhưng mũi miệng ráo có khi ra huyết, răng lung lay, mặt đỏ, da trắng tươi, bức rứt muốn cởi truồng hoặc muốn ngồi vào bùn nước ấm.
Mạch phù sác hay phù đại nhưng ấn ngón tay vào mạch lại không có gì là âm huyết kiệt phía dưới là chân hư hàn, dương phù đại vượt lên trên là giả nhiệt.
Trường hợp này phải đo áp huyết tay phải và đo thêm áp huyết 2 chân, áp huyết 2 tay giả nhiệt, 2 chân hư hàn.
Thí dụ như ở tay phải gan chứa máu là số tâm trương ít máu thì váng dầu, thiếu hơi là khí lực thiếu, nhịp tim nhanh, sẽ có áp huyết như :
Áp huyết tay phải 90-95/60-65mmHg mạch 90-100 nội nhiệt ngoại nhiệt
Áp huyết 2 chân theo thứ tự tâm thu mạch phù, tâm trương máu xuống chân ít huyết hư, chân hàn là mạch thực hàn qúa thấp : 170-180/50-60mmHg mạch 50-55

Cách chữa theo đông y hay tây y cũng chết, theo Y Học Bổ Sung, gốc phải bổ máu bằng bột bổ proteim sport, mỗi thìa bột pha 4 thìa đường, rồi tập bài Lăn Người chia trộn đều máu, khí huyết, đường toàn thân và tập bài Kéo Ép Gối Thổi Hơi Ra Làm Mềm Bụng thông khí trên dưới tăng áp huyết khí lực cho tay, giảm khí lực cho chân, tập cho hết lạnh dưới, xuất mồ hôi trên để điều hòa thân nhiệt.

II-QUY ƯỚC SỰ KHÍ HÓA THUẬN NGHỊCH
admin
Site Admin
 
Bài viết: 7004
Ngày tham gia: Chủ nhật Tháng 4 17, 2011 12:18 am

Quay về Chia xẻ Kinh Nghiệm Chữa Bệnh

Ai đang trực tuyến?

Đang xem chuyên mục này: Không có thành viên nào đang trực tuyến23 khách