Chúa Giêsu từng là Tu sĩ Phật Giáo ???

Phim tài liệu do BBC sản xuất: Kính gửi độc giả bộ phim tài liệu cho hãng BBC sản xuất với tựa đề: Chúa Giêsu từng là Tu sĩ Phật Giáo - Jesus was a Buddhist Monk
https://www.youtube.com/watch?v=xY0Ib3aPG6Y
Thông tin tham khảo:
ĐÔI NÉT SƠ LƯỢC VỀ ‘CHÚA JESUS’
Jesus (Giêsu) là người sáng lập ra Thiên Chúa Giáo (Kitô giáo / Cơ Đốc giáo). Jesus là người Do Thái có tên là Yehoshua. Đối với người đương thời, Jesus còn được biết dưới tên ''Jesus người xứ Nazareth'', hoặc ''Jesus con ông Giuse''.
Sơ Lược:
Jesus, theo các sách Phúc Âm, là một nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng ông bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái.
Cuộc Đời Và Tư Tưởng:
Theo Tân Ước, Jesus sinh tại Belem (gần Jerusalem). Mẹ của ông là Maria. Giuse (Joseph) chồng của Maria, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của Jesus, dẫn đến những suy đoán rằng Giuse qua đời trước khi Jesus bắt đầu đi thuyết giảng. Jesus trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilee. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Jesus theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Jesus 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ, đang tranh luận với các học giả. (Cuộc đời Jesus từ năm 12 tuổi đến khi ông 30 tuổi là một khoảng trống bỏ ngõ mà các sử gia và các nhà nghiên cứu đặt ra nhiều giả thuyết về giai đoạn này trong cuộc đời ông…)
Ngay sau khi chịu lễ rửa tội bởi Gioan Tẩy Giả (John the Baptist), Jesus bắt đầu đi rao giảng, khi ấy ông khoảng ba mươi tuổi. Theo Kinh Thánh, Jesus đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Jesus sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Jesus có mặt. Jesus có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (Thánh tông đồ), Phêrô (Peter) được Thiên Chúa Giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Jesus làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma…
Nhiều người xem Jesus như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt thành vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền thời bấy giờ xem Jesus như một thế lực mới đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời.
Bị Bắt và Bị Xét Xử:
Jesus cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Jesus bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Jesus nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản Jesus để nhận được tiền.
Tòa Công luận cáo buộc Jesus tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate ra lệnh đóng đinh Jesus.
Sau khi Jesus chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn cất Jesus với sự chứng kiến của Maria (mẹ ông), Maria Magdalena (nhiều người cho rằng bà là vợ của Jesus, một số sách Thiên Chúa và Tin Lành mô tả Maria Magdalena là ‘một người phụ nữ theo Jesus’) và những phụ nữ khác.
Phục Sinh và Thăng Thiên:
Các tín đồ Thiên Chúa Giáo tin rằng Jesus đã sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ ‘sự Phục sinh của Jesus’, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh (Easter).
Mẹ, vợ của Jesus (Maria Magdalena) và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đó. Theo ‘Phúc Âm Gioan’ thuật rằng khi vợ Jesus là bà Maria Magdalena - đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người xoay lại thấy Jesus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là ‘Đức Chúa Jesus’ (?). Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng Jesus đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về ‘Trời’.
Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho đức tin của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ.
Di Sản của Jesus:
Theo hầu hết các giải thích của Thiên Chúa Giáo trong Kinh Thánh, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Jesus là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về ‘Thiên Đường’. Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái, nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Jesus. Thiên Chúa Giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới phiên bản được biết đến như Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới.
Nhận Định Từ Một Số Tôn Giáo:
Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo và Tin Lành tin rằng: Jesus là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Jesus là Thiên Chúa hóa thành con người, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Jesus đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Jesus đã sống lại từ cõi chết…
Do Thái giáo thì cực lực phản đối niềm tin nói trên. Họ không xem Jesus là Thiên Chúa xuống thế làm người, cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi Jesus là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng ''Messiah'' từ trời xuống.
Phật giáo hầu như không đưa ra nhận định nào về vai trò Jesus trong kinh sách Phật giáo. Đối với Phật tử, dựa theo lịch sử, Jesus chỉ là một con người. Tuy nhiên, một vài Phật tử - đứng trên tinh thần ngoại giao - trong đó có Đức Dalai Lama XIV (Tenzin Gyatso) xem Jesus như một vị Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc tha nhân.
Một người Nhật có tên Kōtoku Shūsui tác giả cuốn “Kirisuto Massatsuron” (基督抹殺論 - Cơ Đốc Mạt Sát Luận) cho rằng Chúa Jesus chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực.
Chúa Giê Su Từng Đến Ấn Độ Để Học Phật Pháp?
Sự giảng dạy của Giê-Su ở những thành phố thiêng liêng cổ truyền của Jagannath (Puri), Banares (ở Uttar Pradesh), và Rajagriha (Bihar) và làm những người Bà La Môn phẩn nộ, họ làm áp lực ngài phải lẫn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn sau sáu năm, những nhà sử học và tác giả nói thế. Giê-Su, nói trong những tài liệu lưu trữ, đã dành sáu năm khác nữa để học hỏi Phật Pháp ở Hy Mã Lạp Sơn.
Vấn đề nổi bật trở lại trên chúa Giê-Su Ki-Tô và sự liên hệ của ngài với Ấn Độ khi thế giới mừng Chúa Giáng sinh vào thứ Sáu. Một số nhà sử học tin rằng ngài đã dành 17 năm trong buổi thiếu thời – từ lúc 13 đến 30 - ở Ấn Độ học hỏi Phật Pháp và kinh Vệ Đà.
Có những sự nhắc đến rằng gia đình Giê-Su (cha mẹ) cư ngụ tại Nazareth, nhưng ngài xuất hiện lần kế ở Nazareth, khi Giê-Su 30 tuổi. Ngài được nói đã từng lớn lên trong tuệ giác và phát triển trong những năm vắng bóng, “nhà sản xuất phim Anh quốc Kent Walwin nói với IANS(1).
Ở đây để nhận phần thưởng Dayawati Modi vì nghệ thuật, văn hóa , và giáo dục năm 2009, dự án mới nhất của Walwin, “Tuổi trẻ của Giê-Su: Những Năm Vắng Bóng”, sẽ khám phá những năm đầu của chúa cứu thế, những điều không được diễn tả trong Thánh Kinh.
Theo Walwin, bộ phim của ông là “trên Phúc Âm Tông Đồ, nói rằng Giê-Su được thấy lần cuối cùng ở Tây Á khi ngài khoảng 13 – 14 tuổi”.
Phần thứ nhất của bộ phim sẽ căn cứ trên Phúc Âm và phần thứ hai của phim sẽ là “thuần phỏng đoán căn cứ trên dữ liệu lưu trử”, nhà làm phim nói thế.
Có một vài sự nhắc đến sự liên kết ở Ấn Độ. Vào năm 1894, một bác sĩ Nga, Nicolas Notovitch, xuất bản một quyển sách tựa để là “Cuộc đời không được biết của Giê-Su” căn cứ trên hành trình bao quát của ngài ở A Phú Hản, Ấn Độ, và Tây Tạng.
Trong một trong những chuyến du hành của mình, ông đã viếng Leh, thủ phủ của Ladakh và ở trong tu viện Phật Giáo, Hemis, một thời gian khi ngài bị gảy chân.
Tại tu viện, ngài được thấy hai tập tài liệu lớn màu vàng bằng Tạng ngữ, “Cuộc đời của Thánh Issa”. Giê-Su được liên hệ như Issa – hay con trai của thượng đế - bởi một nhà học giả Vệ Đà, người dạy kèm ngài trong thánh kinh Vệ Đà.
Notovitch ghi xuống 200 đoạn kệ từ văn kiện ở phía sau nhật ký của ông mà ông giữ trong suốt chuyến du hành. Tài liệu sau này tạo thành một cơn giông bảo ở phương Tây.
Tu sĩ ở tu viện Hemis, tọa lạc khoảng 40 cây số bên ngoài Leh trên đỉnh một ngọn đồi, làm vững thêm huyền thoại của Giê-Su ở Ấn Độ.
Giê-Su được nói đã từng thăm viếng đất nước chúng ta và Kashmir để học hỏi Phật Pháp. Ngài được truyền cảm hứng bởi giới luật và tuệ giác của Đức Phật,” một lạt ma lão thành của tu viện Hemis đã nói với IANS. Thượng thủ của trường phái Phật Giáo Drukpa, Gwalyang Drukpa, tu viện trưởng tu viện Hemis, cũng tin tưởng vào huyền thoại.
Swami Abhedananda, một học giả tâm linh và nhà tiên tri của Bengal, đã từng du hành đến Hy Mã Lạp Sơn để khảo sát huyền thoại Giê-Su thăm viếng Ân Độ”. Buổi nói chuyện của ông về một quyển sách mang tựa đề “Kashmir O Tibetti”, nói về một cuộc viếng thăm tu viện Hemis ở Ladakh. Nó bao gồm một bản dịch bằng tiếng Bengal hai trăm đoạn kệ về “Huyền thoại Issa” mà Notovitch đã sao chép lại.
“Mọi người yêu mến ông bởi vì Issa sống trong hòa bình với những người Vaishyas và Shudras, là những người ông đã chỉ dẫn và giúp đở,” Roerich nói trong sự trường thuật của ông.
Sự giảng dạy của Giê-Su ở những thành phố thiêng liêng cổ truyền của Jagannath (Puri), Banares (ở Uttar Pradesh), và Rajagriha (Bihar) và làm những người Bà La Môn phẩn nộ, họ làm áp lực ngài phải lẫn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn sau sáu năm, những nhà sử học và tác giả nói thế. Giê-Su, nói trong những tài liệu lưu trử, đã dành sáu năm khác nữa để học hỏi Phật Pháp ở Hy Mã Lạp Sơn.
Quyển sách của học giả Đức, Holger Kersten, “Giê-Su Đã Sống ở Ấn Độ”, cũng đã kể về câu chuyện những năm đầu của Giê-Su ở Ấn Độ.
“Người trai trẻ đến vùng Sindh (dọc theo sông Ấn Hà) cùng với những người buôn bán. Cư ngụ trong những người Arya với mục tiêu hoàn thiện chính mình và học hỏi những giới luật của Đức Phật vĩ đại. Người trai trẻ du hành rộng rãi qua những vùng đất của năm con sông (Punjab), ở lại một thời gian ngắn ngủi với những người Kỳ Na Giáo (2) trước khi tiến tới Jagannath,” Kersten nói trong quyển sách của ông.
Trong phiên bản tiếng Anh của Luận thuyết bằng tiếng Urdu được viêt bởi nhà sáng lập phong trào Hồi Giáo Ahmaddiya, Hazrat Mirza Ghulam Ahmad (1835-1908), cũng kể về một “chuyến viếng thăm lần thứ hai của Giê-Su đến tiểu lục địa” (3) sau khi ngài “được báo cáo thoát khỏi Thánh Giá”.
Giê-Su đã viếng thăm A Phú Hản, “Nơi ngài đã gặp những người Do Thái” những người đã trú ngụ ở đấy để trốn tránh sự bạo ngược của hoàng đế Do Thái Nebuchadnezzar và rồi thì đến Thung Lũng Kashmir, nơi ngài đã sống nhiều năm.
Phụ giải:
(1) · Indo-Asian News Servicehttp://www.ians.inhttp://www.eians.com
(2) Jain
(3) Ấn Độ
Did Christ come to India to study Buddhism, Vedas?
http://www.buddhistchannel.tv/index.php ... 11,0,0,1,0
Tuệ Uyển chuyển ngữ
(sưu tầm)
https://www.youtube.com/watch?v=xY0Ib3aPG6Y
Thông tin tham khảo:
ĐÔI NÉT SƠ LƯỢC VỀ ‘CHÚA JESUS’
Jesus (Giêsu) là người sáng lập ra Thiên Chúa Giáo (Kitô giáo / Cơ Đốc giáo). Jesus là người Do Thái có tên là Yehoshua. Đối với người đương thời, Jesus còn được biết dưới tên ''Jesus người xứ Nazareth'', hoặc ''Jesus con ông Giuse''.
Sơ Lược:
Jesus, theo các sách Phúc Âm, là một nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng ông bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái.
Cuộc Đời Và Tư Tưởng:
Theo Tân Ước, Jesus sinh tại Belem (gần Jerusalem). Mẹ của ông là Maria. Giuse (Joseph) chồng của Maria, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của Jesus, dẫn đến những suy đoán rằng Giuse qua đời trước khi Jesus bắt đầu đi thuyết giảng. Jesus trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilee. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Jesus theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Jesus 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ, đang tranh luận với các học giả. (Cuộc đời Jesus từ năm 12 tuổi đến khi ông 30 tuổi là một khoảng trống bỏ ngõ mà các sử gia và các nhà nghiên cứu đặt ra nhiều giả thuyết về giai đoạn này trong cuộc đời ông…)
Ngay sau khi chịu lễ rửa tội bởi Gioan Tẩy Giả (John the Baptist), Jesus bắt đầu đi rao giảng, khi ấy ông khoảng ba mươi tuổi. Theo Kinh Thánh, Jesus đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Jesus sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Jesus có mặt. Jesus có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (Thánh tông đồ), Phêrô (Peter) được Thiên Chúa Giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Jesus làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma…
Nhiều người xem Jesus như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt thành vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền thời bấy giờ xem Jesus như một thế lực mới đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời.
Bị Bắt và Bị Xét Xử:
Jesus cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Jesus bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Jesus nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản Jesus để nhận được tiền.
Tòa Công luận cáo buộc Jesus tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate ra lệnh đóng đinh Jesus.
Sau khi Jesus chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn cất Jesus với sự chứng kiến của Maria (mẹ ông), Maria Magdalena (nhiều người cho rằng bà là vợ của Jesus, một số sách Thiên Chúa và Tin Lành mô tả Maria Magdalena là ‘một người phụ nữ theo Jesus’) và những phụ nữ khác.
Phục Sinh và Thăng Thiên:
Các tín đồ Thiên Chúa Giáo tin rằng Jesus đã sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ ‘sự Phục sinh của Jesus’, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh (Easter).
Mẹ, vợ của Jesus (Maria Magdalena) và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đó. Theo ‘Phúc Âm Gioan’ thuật rằng khi vợ Jesus là bà Maria Magdalena - đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người xoay lại thấy Jesus tại đó; nhưng chẳng biết ấy là ‘Đức Chúa Jesus’ (?). Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng Jesus đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về ‘Trời’.
Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho đức tin của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ.
Di Sản của Jesus:
Theo hầu hết các giải thích của Thiên Chúa Giáo trong Kinh Thánh, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Jesus là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về ‘Thiên Đường’. Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái, nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Jesus. Thiên Chúa Giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới phiên bản được biết đến như Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới.
Nhận Định Từ Một Số Tôn Giáo:
Hầu hết các tín đồ Thiên Chúa Giáo và Tin Lành tin rằng: Jesus là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Jesus là Thiên Chúa hóa thành con người, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Jesus đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Jesus đã sống lại từ cõi chết…
Do Thái giáo thì cực lực phản đối niềm tin nói trên. Họ không xem Jesus là Thiên Chúa xuống thế làm người, cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi Jesus là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng ''Messiah'' từ trời xuống.
Phật giáo hầu như không đưa ra nhận định nào về vai trò Jesus trong kinh sách Phật giáo. Đối với Phật tử, dựa theo lịch sử, Jesus chỉ là một con người. Tuy nhiên, một vài Phật tử - đứng trên tinh thần ngoại giao - trong đó có Đức Dalai Lama XIV (Tenzin Gyatso) xem Jesus như một vị Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc tha nhân.
Một người Nhật có tên Kōtoku Shūsui tác giả cuốn “Kirisuto Massatsuron” (基督抹殺論 - Cơ Đốc Mạt Sát Luận) cho rằng Chúa Jesus chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực.
Chúa Giê Su Từng Đến Ấn Độ Để Học Phật Pháp?
Sự giảng dạy của Giê-Su ở những thành phố thiêng liêng cổ truyền của Jagannath (Puri), Banares (ở Uttar Pradesh), và Rajagriha (Bihar) và làm những người Bà La Môn phẩn nộ, họ làm áp lực ngài phải lẫn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn sau sáu năm, những nhà sử học và tác giả nói thế. Giê-Su, nói trong những tài liệu lưu trữ, đã dành sáu năm khác nữa để học hỏi Phật Pháp ở Hy Mã Lạp Sơn.
Vấn đề nổi bật trở lại trên chúa Giê-Su Ki-Tô và sự liên hệ của ngài với Ấn Độ khi thế giới mừng Chúa Giáng sinh vào thứ Sáu. Một số nhà sử học tin rằng ngài đã dành 17 năm trong buổi thiếu thời – từ lúc 13 đến 30 - ở Ấn Độ học hỏi Phật Pháp và kinh Vệ Đà.
Có những sự nhắc đến rằng gia đình Giê-Su (cha mẹ) cư ngụ tại Nazareth, nhưng ngài xuất hiện lần kế ở Nazareth, khi Giê-Su 30 tuổi. Ngài được nói đã từng lớn lên trong tuệ giác và phát triển trong những năm vắng bóng, “nhà sản xuất phim Anh quốc Kent Walwin nói với IANS(1).
Ở đây để nhận phần thưởng Dayawati Modi vì nghệ thuật, văn hóa , và giáo dục năm 2009, dự án mới nhất của Walwin, “Tuổi trẻ của Giê-Su: Những Năm Vắng Bóng”, sẽ khám phá những năm đầu của chúa cứu thế, những điều không được diễn tả trong Thánh Kinh.
Theo Walwin, bộ phim của ông là “trên Phúc Âm Tông Đồ, nói rằng Giê-Su được thấy lần cuối cùng ở Tây Á khi ngài khoảng 13 – 14 tuổi”.
Phần thứ nhất của bộ phim sẽ căn cứ trên Phúc Âm và phần thứ hai của phim sẽ là “thuần phỏng đoán căn cứ trên dữ liệu lưu trử”, nhà làm phim nói thế.
Có một vài sự nhắc đến sự liên kết ở Ấn Độ. Vào năm 1894, một bác sĩ Nga, Nicolas Notovitch, xuất bản một quyển sách tựa để là “Cuộc đời không được biết của Giê-Su” căn cứ trên hành trình bao quát của ngài ở A Phú Hản, Ấn Độ, và Tây Tạng.
Trong một trong những chuyến du hành của mình, ông đã viếng Leh, thủ phủ của Ladakh và ở trong tu viện Phật Giáo, Hemis, một thời gian khi ngài bị gảy chân.
Tại tu viện, ngài được thấy hai tập tài liệu lớn màu vàng bằng Tạng ngữ, “Cuộc đời của Thánh Issa”. Giê-Su được liên hệ như Issa – hay con trai của thượng đế - bởi một nhà học giả Vệ Đà, người dạy kèm ngài trong thánh kinh Vệ Đà.
Notovitch ghi xuống 200 đoạn kệ từ văn kiện ở phía sau nhật ký của ông mà ông giữ trong suốt chuyến du hành. Tài liệu sau này tạo thành một cơn giông bảo ở phương Tây.
Tu sĩ ở tu viện Hemis, tọa lạc khoảng 40 cây số bên ngoài Leh trên đỉnh một ngọn đồi, làm vững thêm huyền thoại của Giê-Su ở Ấn Độ.
Giê-Su được nói đã từng thăm viếng đất nước chúng ta và Kashmir để học hỏi Phật Pháp. Ngài được truyền cảm hứng bởi giới luật và tuệ giác của Đức Phật,” một lạt ma lão thành của tu viện Hemis đã nói với IANS. Thượng thủ của trường phái Phật Giáo Drukpa, Gwalyang Drukpa, tu viện trưởng tu viện Hemis, cũng tin tưởng vào huyền thoại.
Swami Abhedananda, một học giả tâm linh và nhà tiên tri của Bengal, đã từng du hành đến Hy Mã Lạp Sơn để khảo sát huyền thoại Giê-Su thăm viếng Ân Độ”. Buổi nói chuyện của ông về một quyển sách mang tựa đề “Kashmir O Tibetti”, nói về một cuộc viếng thăm tu viện Hemis ở Ladakh. Nó bao gồm một bản dịch bằng tiếng Bengal hai trăm đoạn kệ về “Huyền thoại Issa” mà Notovitch đã sao chép lại.
“Mọi người yêu mến ông bởi vì Issa sống trong hòa bình với những người Vaishyas và Shudras, là những người ông đã chỉ dẫn và giúp đở,” Roerich nói trong sự trường thuật của ông.
Sự giảng dạy của Giê-Su ở những thành phố thiêng liêng cổ truyền của Jagannath (Puri), Banares (ở Uttar Pradesh), và Rajagriha (Bihar) và làm những người Bà La Môn phẩn nộ, họ làm áp lực ngài phải lẫn tránh khỏi Hy Mã Lạp Sơn sau sáu năm, những nhà sử học và tác giả nói thế. Giê-Su, nói trong những tài liệu lưu trử, đã dành sáu năm khác nữa để học hỏi Phật Pháp ở Hy Mã Lạp Sơn.
Quyển sách của học giả Đức, Holger Kersten, “Giê-Su Đã Sống ở Ấn Độ”, cũng đã kể về câu chuyện những năm đầu của Giê-Su ở Ấn Độ.
“Người trai trẻ đến vùng Sindh (dọc theo sông Ấn Hà) cùng với những người buôn bán. Cư ngụ trong những người Arya với mục tiêu hoàn thiện chính mình và học hỏi những giới luật của Đức Phật vĩ đại. Người trai trẻ du hành rộng rãi qua những vùng đất của năm con sông (Punjab), ở lại một thời gian ngắn ngủi với những người Kỳ Na Giáo (2) trước khi tiến tới Jagannath,” Kersten nói trong quyển sách của ông.
Trong phiên bản tiếng Anh của Luận thuyết bằng tiếng Urdu được viêt bởi nhà sáng lập phong trào Hồi Giáo Ahmaddiya, Hazrat Mirza Ghulam Ahmad (1835-1908), cũng kể về một “chuyến viếng thăm lần thứ hai của Giê-Su đến tiểu lục địa” (3) sau khi ngài “được báo cáo thoát khỏi Thánh Giá”.
Giê-Su đã viếng thăm A Phú Hản, “Nơi ngài đã gặp những người Do Thái” những người đã trú ngụ ở đấy để trốn tránh sự bạo ngược của hoàng đế Do Thái Nebuchadnezzar và rồi thì đến Thung Lũng Kashmir, nơi ngài đã sống nhiều năm.
Phụ giải:
(1) · Indo-Asian News Servicehttp://www.ians.inhttp://www.eians.com
(2) Jain
(3) Ấn Độ
Did Christ come to India to study Buddhism, Vedas?
http://www.buddhistchannel.tv/index.php ... 11,0,0,1,0
Tuệ Uyển chuyển ngữ
(sưu tầm)